Thứ Ba, 11 tháng 1, 2011

Lạc việt độn toán phần 2

Phương pháp độn quẻ Lạc Vệt độn toán

Phương pháp độn quẻ trong Lạc Việt độn toán đã trình bày ở phần trên 2 – 1 và 2 – 2 thuộc phần Một của sách này. Chúng ta thấy rằng rất đơn giản, dễ học, nhưng việc luận quẻ lại tuỳ thuộc hoàn toàn vào câu hỏi của nguờì độn dùng quẻ để toán việc gì và sự chính xác tuỳ thuộc khả năng của người luận đoán. Tuy nhiên những việc đơn giản với câu hỏi cụ thể thì quẻ Lạc Việt độn toán đặc biệt dễ ứng dụng. Phương pháp độn Lạc Việt độn toán gồm hai bộ phận cấu thành trong quẻ là độn Bát Môn và Lục Nhâm. Cũng và cũng như tất cả các môn dự báo tiên tri khác của Lý học phương Đông, đều dùng âm lịch.
Phần này giới thiệu với các bạn phương pháp độn quẻ đơn giản trên bàn tay:


1 – Độn Bát môn.
Độn Bát Môn Đại Độn: Dùng 8 đốt ngón tay trên bàn tay

1 – 1: Bắt đầu từ cung Sinh ở đốt thứ nhất ngón trỏ là tháng thứ nhất trong năm, tính thuận theo chiều kim đồng hồ - mỗi tháng một cung - đến tháng cần toán.

1 - 2: Tiến 1 cung là ngày mùng 1 của tháng đó, tính thuận mỗi ngày một cung - đến ngày cần toán.

1 - 3: Tiến 1 cung là giờ Tí của ngày đó, tính thuận - mỗi giờ một cung - đến giờ cần toán trong ngày, dừng tại cung nào ra quẻ tên cung đó.

Thí dụ:
Giờ Tuất, ngày 19 tháng 5.
Bắt đầu từ cung Sinh là tháng 1 đếm thuận chiều kim đồng hồ đến tháng 5, dừng ở cung Tử. Tiến 1 cung là cung Kinh, đếm thuận đến 19 là cung Hưu. Tiến 1 cung là cung Sinh giờ Tí đếm đến giờ Tuất, toán được là cung Đỗ, tức quẻ Đỗ.

2 - Độn Lục Nhâm
Độn Lục Nhâm: Dùng 8 đốt ngón tay trên bàn tay


2 – 1: Năm Tí từ cung Đại An, trên đốt thứ nhất ngón trỏ, chiều thuận kim đồng hồ - mỗi năm một cung - đến năm cần toán, dừng ở cung nào là tháng 1 của năm đó.

2 – 2: Từ tháng 1 tính thuận - mỗi tháng một cung - đến tháng cần toán, dừng ở cung nào là ngày 1 của tháng đó.

2 - 3: Từ ngày 1 tính thuận mỗi ngày một cung – đến ngày cần toán dừng lại ở cung nào là giờ Tí của ngày đó.
Từ giờ Tí tính thuận đến giờ cần toán, ta sẽ được quẻ Lục Nhâm cần toán.

Thí dụ: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 năm Tỵ.
Bắt đầu từ cung Đại an là năm Tí, đếm thuận theo chiều kim đồng hồ đến năm Tỵ là cung Không vong. Từ cung Không vong là tháng 1, đếm thuận đến tháng 5 là cung Xích khẩu. Từ cung Xích khẩu là ngày 1, đếm thuận đến ngày 19 là cung Xích khẩu. Từ cung Xích khẩu là giờ Tí, đếm thuận đến giờ Tuất là cung Lưu niên,toán được cung Lưu Niên.

3 – Quẻ Lạc Việt độn toán
Như vậy, kết hợp hai cung của Bát môn và Lục Nhâm trong cùng đơn vị thời gian luận quẻ trong bài trên là:

* 1 – 3: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 - Quẻ Bát Môn = Đỗ.
* 2 – 3: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 - Quẻ Lục Nhâm = Lưu Niên.

Ta có quẻ của Lạc Việt độn toán là:

Đỗ - Lưu Niên - năm âm
* Quẻ Bát môn trong Lạc Việt độn toán tương ứng hoàn cảnh, điều kiện môi trường của sự vật sự việc, với quẻ Thượng trong bốc Dịch.* Quẻ Lục Nhâm trong Lạc Việt độn toán tương ứng với hiện trạng, bản chất sự vật, sự việc, với tương ứng với quẻ Hạ trong Bốc Dịch.

3 – 1: Cách lấy quẻ Lạc Việt độn toán bằng công thức.
Cũng có một cách độn quẻ Lạc Việt độn toán tính theo số dư do Ninh Thuận – Học viên lớp Lạc Việt độn toán - giới thiệu.

Xin giới thiệu để các bạn tham khảo.

3 – 1 – 1: An quẻ Bát môn:
Lấy số Tháng + Ngày + Giờ chia cho 8 còn dư bao nhiêu so số dư với thứ tự của các quẻ Bát môn sẽ ra quẻ Bát môn.
Ví dụ : Tháng 9 + ngày 25 + giờ Dần 3 = 37 chia 8 dư 5, 5 là quẻ Tử của Bát môn

3 – 1 – 2: An quẻ Lục nhâm:
Lấy số Năm + Tháng + Ngày + Giờ - 3 chia cho 6 còn dư bao nhiêu so số dư với thứ tự của quẻ Lục nhâm sẽ ra quẻ Lục nhâm
* Ví dụ : Năm Tuất ( 11 ) + Tháng 9 + ngày 25 + giờ dần (3 ) = 48 – 3 = 45 chia cho 6 còn dư 3 , 3 là Tốc Hỉ. Đại An được tính là quẻ thứ nhất.
Như vậy kết hợp hai quẻ Bát Môn và Lục Nhâm ra quẻ Lạc Việt độn toán là:

Tử - Tốc Hỉ

3 – 1 – 3: Kết Luận
Quẻ Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ Lục Nhâm và Bát môn lấy trong cùng một không thời gian toán quẻ.

4 – Một số nguyên tắc khi độn quẻ:
4 – 1: Thời gian lấy quẻ
Ở địa phương nào thì dùng giờ địa phương đó khi độn quẻ. Cứ hai giờ quốc tế thì bằng một giờ Âm lịch. Nếu rơi vào thời gian giữa hai giờ – từ chuyên dùng gọi là giờ khe - thì dùng cả hai quẻ của hai giờ đó để luận.

Khái niệm giờ khe: Giờ khe là thời điểm giao nhau của hai giờ âm lịch .

Thí dụ:
Động quẻ vào khoảng 9 giờ sáng tức giữa hai giờ là Thìn – Tỵ. Quẻ giờ Thìn là Thương Vô Vong; quẻ giờ Tỵ là Đỗ Tốc Hỷ thì lấy cả hai quẻ để luận. Quẻ trước là tiền vận, là hiện trạng. Quẻ sau là kết quả.

4 – 1 – 1: Quy ước chung giờ Âm lịch và giờ Quốc tế

1) 11g – 1 giờ = Giờ Tý.
2) 1 – 3 giờ = Giờ Sửu.
3) 3 – 5 giờ = Giờ Dần.
4) 5 – 7 giở = Giờ Mão.
5) 7 – 9 giờ = Giở Thìn
6) 9 – 11 giờ = Giờ Tỵ.
7) 11 – 13 giờ = Giờ Ngọ.
8) 13 – 15 giờ = Giờ Mùi
9) 15 – 17 = Giờ Thân.
10) 17 - 19 = Giờ Dậu.
11) 19 - 21 = Giờ Tuất
12) 21 – 23 = Giờ Hợi.

4 – 1 – 2: Bảng tra giờ mặt trời dùng trong dự báo tương ứng tại Việt Nam.
Trên thực tế giữa giờ qui ước theo bảng trên dùng cho bất cứ quốc gia nào và giờ địa phương nơi cư trú của người luận quẻ, lấy số Tử Vi...vv...lại có một chêng lệch giữa múi giờ qui ước và giờ địa phương. Bởi vì giờ qui ước lấy theo vị trí địa lý thủ đô của quốc gia sở tại. Nhưng giờ địa phương thực tế so với mặt trời đôi khi cách nhau hàng nửa giờ , thâm chí ở những quốc gia lớn như Nga, lãnh thổ trải dài trên nhiều múi giờ thì sự chênh lệch giữa giờ qui ước và giờ địa phương là rất lớn.

Bởi vậy, chúng ta cần bảng này dùng trong dự báo tại Việt Nam và từ đó suy ra các địa phương khác nhau trên thế giới.

Lưu ý:
Bảng tra giờ chênh lệch này do một trí giả ở Sài Gòn vào những năm 60 đã kỳ công trong nhiều năm đo bóng mặt trời để so sánh tìm ra. Khi tìm được danh tính vị này tôi sẽ xin bổ xung sau. Giờ Dương lịch trong bảng này đã được hiệu chỉnh phù hợp với giờ qui ước của nhà nước.

4 – 2: Điều kiện thời gian luận quẻ:
Giả sử vào giờ Ngọ định bấm quẻ mà không độn vì lý do gì đó, đến giờ Mùi mới độn thì tính quẻ giờ Mùi. nếu giờ Ngọ đã bấm thành quẻ rồi thì tính quẻ giờ Ngọ. Nếu do biết trước - do học thành thạo nên biết an quẻ trước trong ngày, rồi đợi giờ tốt quẻ tốt mới an quẻ để hỏi việc thì quẻ không nghiệm.

4 – 3: Khái niệm ngẫu nhiên và tính cảm ứng khi độn quẻ:
Khái niệm ngẫu nhiên này thuờng được hiểu theo cách nhìn thông dụng của đời thường là một sự tương tác phi qui luật, không thể tiên liệu. Nhưng theo thuyết Âm Dương Ngũ hành thì không hề có cái gì là ngẫu nhiên trong sự tương tác chằng chịt của tự nhiên, xã hội và con người cả. Ngay cái goị là "cảm ứng tiên tri" cũng không hề ngẫu nhiên.Chính sự tương tác có tính qui luật lên ngay ý thức của chúng ta, để chúng ta phải độn quẻ vào giờ này, chứ không phải giờ khác và quẻ phải là "a", chứ không phải "b" để quyết định tiên tri sự việc sẽ là thế này, chứ không phải thế kia là một chuỗi tất yếu có tính qui luật.

Tôi xin được bắt đầu bằng tính ngẫu nhiên xâu chuỗi của các vấn đề liên quan như sau:
* Một sự kiện xảy ra gây thắc mắc cần hỏi.
* Thời gian người trong cuộc cần hỏi vào giờ này chứ không phải giờ khác.
* Thời gian nguời luận gieo quẻ và trả lời.

Thông thường thì thời gian hỏi và trả lời trùng khớp. Ở quẻ Dịch với việc thả ba đồng chinh thì tính ngẫu nhiên rất cao ở chính phương pháp gieo quẻ.

Tất cả những yếu tố liên hệ xâu chuỗi này đều mang tính ngẫu nhiên. Nhưng - giả thiết - nó ra một quẻ nghiệm và sự lý giải tiên tri đúng thì tất cả những chuỗi ngẫu nhiên đó có vẻ như là tính tất yếu.

Nguyên nhân nào để có hiện tượng này?Điều này được giải thích - chứ chưa phải chứng minh - qua thí nghiệm của vật lý lượng tử: Chính là sự tương tác có tính quy luật của ý thức với các hạt cơ bản. Tôi đã phân tích và chứng minh rằng: Ý thức có thuộc tính vật chất và chịu sự tương tác có tính quy luật của vũ trụ. Tính tương tác này là hai chiều. Xin xem kỹ hơn luận đề này trong tiểu luận ’’Định mệnh có thật hay không?”. Chính vì tính tương tác có tính quy luật của ý thức với quy luật của thiên nhiên và ngược lại, nên hoàn toàn không có vấn đề ngẫu nhiên trong chuỗi sự kiện dẫn đến việc gieo quẻ trong Bốc Dịch, hay độn quẻ trong Lạc Việt độn toán. Nhưng đó là ý thức rất tập trung. Như vậy, chúng ta không thể có một phân tích sáng suốt và được quẻ nghiệm, nếu không có sự tập trung tư tưởng. Và sự tập trung này cần cảm hứng với việc độn quẻ. Thông thường thì các nhà chiêm tinh trả lời ngay khi được hỏi, vì tính chuyên nghiệp và cảm hứng tiên tri sẵn có của họ. Nhưng bản chất của vấn đề vẫn là cảm hứng.

Những nguời mới học Lạc Việt độn toán không phải là tiên tri chuyên nghiệp, tôi khuyên khi có cảm hứng hãy độn quẻ. Tuy nhiên mọi nguời vẫn có thể độn quẻ trả lời ngay khi được hỏi, nếu họ có cảm hứng tức thời

4 – 3 – 1: Nguyên tắc chọn quẻ trong hợp nhiều người cùng độn một việc:

Trường hợp có nhiều nguời cùng độn quẻ và cho những quẻ khác nhau vào thời điểm không thời gian khác nhau sẽ chọn quẻ hợp lý nhất cho sự việc để giải và mọi chi tiết của sự việc cần báo sẽ là sự tổng hợp các quẻ đã độn của người khác.

Chúng ta giả thiết rằng: Tất cả các quẻ khác nhau đều nghiệm cho một sự việc.

Mới nghe có vẻ như vô lý. Nhưng thực ra thì mỗi quẻ sẽ phản ánh một phần của sự việc. Người giỏi và kiến thức rộng có thể suy ra toàn bộ sự việc từ quẻ đã độn. Điều này cũng giống như nhà khảo cổ tìm ra mấy cái xương con khủng long để suy ra toàn bộ con Khủng long.

4 – 3 – 2: Nguyên tắc chọn quẻ do người hỏi độn:
Nếu nguời hỏi tự độn quẻ rồi lấy quẻ đó hỏi nguời luận giải thì mọi chuyện sẽ toán theo quẻ đã độn.

4 – 3 – 3: Phương vị trong quẻ Lạc Việt độn toán
Khi xem sự việc với những câu hỏi như: Anh A có khỏi bệnh không? Hoặc cháu B lớn lên có nghịch không? Trường hợp này không tính phuơng vị. Phương vị chỉ được xét đến khi câu hỏi có yếu tố phương vị. Thí dụ: Người này ở đâu tới? Việc này xảy ra ở đâu?...vv....
Phạm vi không gian độn quẻ cho sự việc trong trong nước (Quốc gia) thì lấy nơi mình cư trú là tâm để định phương vị. Xem việc có tính quốc tế thì lấy thủ đô nơi mình độn quẻ làm tâm định phương vị.

Quẻ Bát Môn xác định phương vị xảy ra sự kiện.
Quẻ Bát môn kết hợp Lục Nhâm xác định tính chất sự kiện, hoặc hậu quả sự kiện.

Ý nghĩa của quẻ Lạc Việt độn toán

Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ Bát Môn độn giáp và Lục Nhâm Đại độn. Sự tương tác theo tính chất ngũ hành và vị trí tương tác Âm Dương của hai quỷe này với tính chất của từng quẻ sẽ quyết định tính chất của dự báo cho các sự kiện. Bởi vậy phần này chứng ta tìm hiểu vể ý nghĩa của các qủe trong Lạc Việt độn toán.


1 - Ý nghĩa của quẻ Bát Môn độn giáp
1 – 1: Sinh
Sinh nghĩa là: Sống, là sự bắt đầu (cho một việc, một cái gì đó), là ý tưởng ban đầu, là mầm cây, là cỏ, là cây nhỏ, là loại cây mềm yếu (cây Liễu chẳng hạn), là mùa xuân, là sự hứa hẹn, là hy vọng… Cung Sinh là Âm Mộc, nhưng nghĩa Sinh thuộc Dương Mộc. Độ số là 3. Về phương vị là chính Đông. Về màu sắc là xanh lá mạ, xanh non.

1 – 2: Thương
Thương nghĩa là: Buồn, là thuộc trạng thái tình cảm, là cây lớn, là sự phát triền sung mãn sắp chuyển sang giai đoạn suy vi. Cung Thương là Dương Mộc, nhưng nghĩa của Thương thuộc Âm Mộc. Độ số là 8. Về phương vị là Đông Bắc. Về màu sắc là xanh lá cây xậm.

1 – 3: Đỗ
Đỗ nghĩa là: Đạt, là sự thành đạt, là kết quả tốt đẹp, là được việc, là quí nhân phù trợ. Cung Đỗ là Âm Hoả, nhưng nghĩa của Đỗ thuộc Dương Hoả. Độ số là 7. Về Phương vị là chính Nam. Về màu sắc là màu đỏ.

1 – 4: Cảnh
Cảnh nghĩa là: Đi chơi ở trong sự nhàn hạ, phong lưu.Là từ xa tới, là du lịch, là đi xa, là vẻ đẹp, là nhà đẹp, cao rộng có vườn cây hoặc nội thất rực rỡ. Cung Cảnh thuộc Dương Hoả, nhưng nghĩa của Cảnh thuộc Âm Hoả. Độ số là 2. Về phương vị là Đông Nam. Về màu sắc là màu đỏ nâu. Cảnh, vì là Âm Hỏa – chính vị Khôn Thổ (Theo Hậu thiên Lạc Việt) – nên còn có ý nghĩa là Âm Thổ: miếng đất đẹp.

1 – 5: Tử
Tử nghĩa là: Chết, sự chấm dứt, kết thúc, là cắt đứt, là sát phạt, là tiền bạc tài sản lưu động, là người làm nghề cơ khí, kim khí, là võ nghiệp, nếu là bác sĩ thì liên quan đến mổ xẻ, là nghe… Cung Tử thuộc Âm Kim, nhưng nghĩa của Tử thuộc Dương Kim. Độ số là 9. Về phương vị là chính Tây. Về màu sắc là màu trắng. Tử, cũng còn có nghĩa là con cái.

1 – 6: Kinh
Kinh nghĩa là: Kinh sợ, đột ngột, sự bất ngờ, là giật gân, là người làm việc táo bạo, mạo hiểm … Cung Kinh thuộc Dương Kim, nhưng nghĩa của Kinh thuộc Âm Kim. Độ số là 4. Về màu sắc là trắng xám.

1 – 7: Khai
Khai nghĩa là dòng nước chảy, là sự khai thông, là trôi đi, là thoát khỏi sự bế tắc, là đi xa thuận lợi, … Cung Khai thuộc Âm Thuỷ, nhưng nghĩa của Khai thuộc Dương Thuỷ. Độ số là 1. Về màu sắc là xanh dương, là đen bóng.

1 – 8: Hưu
Hưu nghĩa là: Nghỉ, sự ngưng trệ, sự nghỉ ngơi do bất lực, kiệt sức, là bế tắc. Cung Hưu thuộc Dương Thuỷ, nhưng nghĩa của Hưu thuộc Âm Thuỷ. Độ số là 6. Về màu là màu đen xỉn, xanh đen.

2 - Ý nghĩa các quẻ Lục Nhâm Đại độn
2 – 1: Đại an
Đại an thuộc Dương Thổ, nghĩa là bình yên lớn. Tính chất chậm chạp nhưng chắc chắn, thuộc về tài sản là nhà đất lớn, là miếng đất hoặc vùng đất lớn, là nguồn lợi ổn định, chắc chắn. Về người là bậc quân tử chín chắn, nữ hiền hậu tính cách điềm đạm, là người đầy đặn, béo tốt. Về công việc là sự ổn định, là người làm tại nơi trung tâm, có quyền chức địa vị. Về nơi làm việc là cơ quan hoặc bộ phận quan trọng. Về bệnh liên quan đến dạ dày hoặc tỳ.Về phương vị là nơi trung tâm. Về màu sắc là màu vàng thổ. Độ số là 5

2 – 2: Lưu niên
Lưu niên thuộc Thuỷ, nghĩa là giữ lại thời gian. Có tính hiểm độc, lừa dối, âm mưu, là mưu toan, là sự do dự, lo lắng. Thuộc về tài sản là thất thoát, phá sản. Thuộc về sự việc là trì trệ. Là công việc không chính danh, có tính phiêu lưu mạo hiểm, là phi pháp, phi đạo đức. Là chết chóc tai nạn. Về bệnh thì liên quan đến máu huyết hoặc thận. Về phương vị là phương Bắc hoặc Tây Bắc. Về màu là màu đen hoặc xanh dương. Về độ số là 1 và 6.

2 – 3: Tốc Hỷ
Tốc hỷ thuộc Hoả, nghĩa là sự vui vẻ, may mắn, là nhanh chóng, là tốt đẹp sáng sủa. Về người là quí nhân hay giúp đỡ người khác, là người thông minh, tài cao học rộng. Về công việc là chính danh, về học vấn là sự thành đạt, có học vị cao, là những dịch vụ phục vụ cho vẻ đẹp, cho nhu cầu tinh thần. Về hiện tượng là thuộc về văn hóa, giáo dục. Là người mang những giá trị tinh thần cao quí. Về bệnh liên quan đến tim hoặc tinh thần. Về màu sắc là màu đỏ, về phương vị là hướng Nam hoặc Đông Nam. Về độ số là 2 và 7.

2 – 4: Xích Khẩu
Xích khẩu thuộc Kim. Nghĩa là sự tranh luận, cãi nhau, tiếng ồn ào, tiếng động. Về sự việc là tranh chấp kiện tụng. Về nghề nghiệp là nghề liên quan đến kim khí, máy móc; liên quan đến miệng như: dạy học, luật sư, quảng cáo, thông tin… Về người là người hay nói, lý luận khúc chiết, là người thấp, đầy đặn, nhiều lý trí. Về bệnh tật là bệnh liên quan đến phổi, tai, xương cốt. Về hướng là hướng Tây hoặc Tây Nam. Về màu sắc là màu trắng hoặc xám trắng. Về độ số là 4 và 9.

2 – 5: Tiểu Cát
Tiểu cát thuộc Mộc. Nghĩa là niềm vui nhỏ, là tin tức vui, là tình cảm, tình yêu, sự quí mến. Về sự vật là sách vở, là tri thức, học hành, là cây cối. Về người là người giàu tình cảm, là hôn nhân, tình duyên. Về nghề nghiệp là người buôn bán nhỏ, có tiểu lợi, là người làm ăn liên quan đến gỗ cây, sách vở, tri thức… Về hình thể là người yểu điệu, mình dây, duyên dáng; đàn ông cao gầy có tính hiền, ham học hỏi. Về bệnh liên quan đến gan.Về hướng là hướng Đông hoặc Đông Bắc. Về màu sắc là màu xanh lá cây. Về độ số là 3 và 8.

2 – 6: Vô Vong
Vô vong thuộc Âm Thổ. Nghĩa là không được việc gì, hoặc không sao cả; là đất bỏ hoang. Về người là người vô tích sự, thất nghiệp. Gặp hạn thì hoá giải. Về màu sắc là màu vàng đất xỉn. Về phương vị là ở cạnh nơi trung tâm, ở phía dưới, là nền nhà. Về độ số là 10.

3 – Các quẻ Lạc Việt độn toán
Lạc Việt độn toán có tính khái quát rất cao. Các phương pháp bói toán từ nền lý học Đông phương cổ với khả năng tiên tri phải phản ánh một qui luật nào đó của vũ trụ. Tính khái quát càng lớn càng chứng tỏ tính quy luật rất bao trùm. Vấn đề là chúng ta hiểu gì về thực tại vận động của những qui luật đó qua những phương pháp bói toán thuộc Lý học Đông phương.

Chúng ta cũng nhận thấy chỉ có 48 quẻ để dự báo cho tất cả sự vật sự việc từ nhỏ đến lớn so với quẻ Dịch có 64 quẻ với tính chi tiết hoàn hảo cho từng hào Có thể Lạc Việt độn toán đã ra đời trước khi có phương pháp Bốc Dịch với 64 quẻ với chi tiết chiêm nghiệm đến từng hào. Nói một cách khác: Lạc Việt độn toán có tính khái quát và gần với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhưng vì tính thất truyền của một nguyên lý lý thuyết phản ánh một thực tại đã tạo dựng ra nó và chưa thật chính xác do thất truyền, nên phương pháp Bốc Dịch trở nên huyền bí và có những sai lệch như tình trạng chung của các phương pháp tiên tri phương Đông .

Đây chỉ là ý tưởng ban đầu của riêng tôi về sự suy luận tính lịch sử thời gian của sự ra đời hai phương pháp Bốc Dịch và Lạc Việt độn toán . Nhưng hy vong từ gợi ý này, sẽ là những ý tưởng để sau đây có ai nghiên cứu về lịch sử hình thành các phương pháp tiên tri của Lý học Đông phương sẽ tiếp tục tìm hiểu và tìm ra những lời giải cho các hiện tượng từ hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn năm trước.

Bây giờ chúng ta quay lại với 48 quẻ của Lạc Việt độn toán
Trong Lạc Việt độn toán chỉ có 48 quẻ, nhưng vì tính phân Âm Dương trong từng năm khi toán quẻ, nên thực tế mỗi năm chỉ dùng 24 quẻ. Sự thay đổi 24 quẻ trong từng năm nằm ở Lục Nhâm.

3 – 1: Năm Âm Dương theo Thiên can:
* Những năm thuộc Dương tính theo Thiên Can là: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.
* Những năm thuộc Âm tính theo Thiên Can là: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý.
Tử khái niệm Âm Dương của Thiên Can , mà đứng đầu Dương là Giáp và đầu Âm là Ất cho chúng ta thấy rằng: Mộn Độn giáp chính là dưới con Giáp. Môn Thái Ất chính là trên con Ất. Những cổ thư chữ Hán còn lưu truyền chứng tỏ có hai môn tách biệt là ’’Kỳ Môn độn giáp” và ’’Thái Ất thần kinh’’. Nhưng thực ra nguyên thuỷ của hai bộ sách này chỉ là một. Bởi vì nó đều phản ánh nguyên lý của sự hoà hợp, tương tác Âm Dương trong vũ trụ. Đây chỉ là lời bàn thêm không chứng minh.

3 – 2: Năm Âm Dương theo Địa chi:
* Những năm thuộc Dương theo Địa chi là: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.
* Những năm thuộc Âm theo Địa chi là: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.
Trong Lạc Việt độn toán thì quẻ Bát môn bao giờ đầu năm - giờ Tý, tháng Giêng - cũng là quẻ Đỗ. Đây là tính bất di bất dịch của Lạc Việt độn toán.

Quẻ Đỗ cho tất cả các năm mang tính triết học rất sâu sắc: Nó chứng tỏ tính phát sinh và phát triển không ngừng nghỉ của vũ trụ. Đỗ tức là đạt nhưng đây là cái Đạt của vũ trụ và tính khách quan vận động và phát triển của nó, còn đối với con người thì vấn đề tốt xấu còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Bản thân vũ trụ thì sự phát triển tuần hoàn, có tính qui luật, tính khách quan. Nói theo ngôn ngữ cổ chính là tính ’’tự nhiên, như nhiên”. Tốt xấu là theo quan niệm của con người. Ví dụ việc ăn thịt bò là bổ với con người, nhưng là sự bi thảm với con bò...từ đó chúng ta suy luận ra.

4 – Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán
Lạc Việt độn toán có 48 quẻ phân Âm Dương theo năm, là sự tương tác của hai quẻ Bát Môn và Lục Nhâm với ý nghĩa khái quát như sau:

4 – 1: Quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương.
Các quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương gồm 24 quẻ trình bày lại như sau:
Đỗ:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Cảnh:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.
Tử:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Kinh:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.
Khai:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Hưu:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong
Sinh:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.
Thương:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong

4 – 1 – 1: Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương
4 – 1 – 1 – 1: Đỗ Tiểu Cát
Tiểu Cát Mộc sinh Đỗ Hoả. Nội sinh ngoại. Việc thành đạt co cố gắng, Tiểu lợi.

4 – 1 – 1 – 2: Đỗ Đại An
Đỗ Hoả sinh Đại An Thổ. Ngoại sinh nội. Thuận lợi, Tốt. Chủ về Công danh tài lợi.

4 – 1 – 1 – 3: Đỗ Tôc Hỷ
Đỗ Hoả ngang hoà Tốc Hỷ Hoả. Hoà hợp, đồng thuận. Mọi việc tốt đẹp. Chủ về công danh, tiếng tăm, tri tuệ..

4 – 1 – 1 – 4: Cảnh Xích Khẩu:
Âm Hoả đới Thổ vừa khắc vừa sinh Xích Khẩu Kim.

4 – 1 – 1 – 5: Cảnh Vô Vong
Âm Hoả đới Thổ sinh Vô Vong Thổ. Ngoại sinh nội. Điều kiện thuận lợi cho hoàn cảnh tự thân vốn không khả quan. Chủ quý nhân phù trợ.

4 – 1 – 1 – 6: Cảnh Lưu Niên
Âm Hoả đới Thổ xung khắc Lưu Niên Thuỷ. Hình thức bên ngoài tốt đẹp không thể hiện nội dung bên trong đang xấu.

4 – 1 – 1 – 7: Tử Tôc Hỷ
Tốc Hỷ Hoả khắc Tử Kim. Nội lục mạnh khắc chế được hoàn cảnh không thuận lợi. Chủ sự cố gắng vượt lên hoàn cảnh.

4 – 1 – 1 – 8: Tử Tiểu Cát
Tử Kim khắc Tiểu Cát Mộc. Hoàn cảnh không thuận lợi. Thiệt hại nhỏ. Chủ tình cảm suy.

4 – 1 – 1 – 9: Tử Đại An
Đại An Thổ sinh Tử Kim. Chủ sinh xuất bất lợi. Sự nghiệp hao tổn, nhưng không đáng kể.

4 – 1 – 1 – 10: Kinh Lưu Niên
Kinh Kim sinh Lưu Niên Thuỷ. Chủ bất ngờ suy bại lớn.
Ghi chú; Đây là quẻ dự báo sóng thần Indonesia – Philippin.
Website Tuvilyso.com. Những lời tiên tri 2004.

4 – 1 – 1 – 11: Kinh Xích Khẩu
Hai hành Kim ngang hoà. Chủ bất ngờ gây tranh chấp lớn. Về số mệnh tuỳ câu hỏi chủ bất ngờ có tài lộc lớn nhưng không dễ dàng.

4 – 1 – 1 – 12: Kinh Vô Vong
Vô Vong Âm Thổ sinh xuất Kinh Kim. Tượng vàng nổi trên mặt đất. Đem thân dâng hiến cho đời. Tuy có tiêng vang, nhưng việc không thành.

4 – 1 – 1 – 13: Khai Đại An
Đại An Thổ khắc Khai Thuỷ. Tượng nước chảy thông trên mặt đất. Từ từ, thận trong việc thành. Quẻ Dịch tương ứng Thuỷ Địa Sư.

4 – 1 – 1 – 14: Khai Tốc Hỷ
Khai Thuỷ khắc Tốc Hỷ Hoả. Tượng dòng suối đẹp chảy ảo ạt. Mọi việc hanh thông vì tương ứng tính chất tốt của quẻ. Nhưng thành việc phải biết dừng.

4 – 1 – 1 – 15: Khai Tiểu Cát
Khai Thuỷ sinh Tiểu Cát Mộc. Ngoịa sinh nội. Hoàn cảnh tốt cho bản thể. Phát chậm, nhưng chắc chắn.

4 – 1 – 1 – 16: Hưu Lưu Niên
Lưỡng Thuỷ thuỷ triệt. Quẻ xấu, lo buồn thế cuộc, thời vận.

4 – 1 – 1 – 17: Hưu Xích Khẩu
Xích khẩu Kim sinh Hưu Thuỷ tù. Chủ sự lưỡng lự, tranh chấp nôpị bộ và không còn cơ hội.

4 – 1 – 1 – 18: Hưu Vô Vong
Tượng nước chảy ngầm dưới đất. Không dùng được việc gì.

4 – 1 – 1 – 19: Sinh Đại An
Sinh Mộc khắc Đại An Thổ. Tượng bãi cỏ xanh tốt rộng lớn. Quẻ tốt , chậm chắc chắn sẽ thảnh công. Khó khăn không đáng kể.

4 – 1 – 1 – 20: Sinh Tốc Hỷ
Sinh Mộc sinh Tốc Hỷ Hoả. Tượng cỏ khô đốt lửa. Điều kiện tuy thuận lợi nhưng klhông thoả mãn nhu cầu. Nôn nóng thất bại.

4 – 1 – 1 – 21: Sinh Tiểu Cát
Lưỡng Mộc thành Lâm. Quẻ tốt. Mọi việc tiệm tiến hanh thông, do tính của mộc phát chậm. Phải biết thuận thế phát triển.

4 – 1 – 1 – 22: Thương Lưu Niên
Lưu Niên Thuỷ sinh Thương Mộc. Hoàn cảnh buồn bã, khiến lo lắng không yên. Mưu sự cũng thất bại. Phải chờ đợi.

4 – 1 – 1 – 23: Thương Xich Khẩu
Xích khẩu Kim khắc thương Mộc. Chủ tranh chấp tổn hại. Việc thành nhưng bất lợi về tình.

4 – 1 – 1 – 24: Thương Vô Vong
Thương Mộc khắc Vô Vong Thổ. Tượng nhà tranh xiêu veo, sụp nát. Việc buồn không thành.

4 – 2 : Quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm.
Các quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm gồm 24 quẻ trình bày lại như sau:

Đỗ:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Cảnh:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Tử:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Kinh:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Khai:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Hưu:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Sinh:
Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Thương:
Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

4 – 2 – 1: Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm.

4 – 2 – 1 – 1: Đỗ Lưu niên.
Lưu Niên thuỷ khắc Đỗ Hoả. Nội khắc ngoại. Hình thức không phản ánh nội dung. Cẩn thận với hình thức bên ngoài của đối tượng.

4 – 2 – 1 – 2: Đỗ Xích khẩu
Ngoại khắc nội. Bề ngoài tuy nhiệt tình, nhưng bên trong còn phân vân chưa quyết. Cuối cùng sẽ đạt. Thích hợp với việc tiệc tùng, ăn nhâu, tranh luận, bàn cãi.

4 – 2 – 1 – 3: Đỗ Vô vong.
Ngoại sinh nội. Một kẻ được nâng đỡ nhiệt tình,nhưng nội lực yếu. Cuối cùng không được việc.

4 – 2 – 1 – 4: Cảnh Tiểu cát
Nội sinh ngoại với ý nghĩa Cảnh Âm Hỏa, Nội khắc Ngoại với ý nghĩa Cảnh Âm Thổ Khôn chính vị. Nếu Hỏa Vượng thì nội sinh ngoại. Hỏa mộ thì nội khắc ngoại. Thích hợp với du lịch, đi chơi xa. Làm ăn xa Tiểu Lợi.

4 – 2 – 1 – 5: Cảnh Đại An
Ngoại sinh nội. Công việc thuận lợi. Lợi kiến Đại Nhân. Sự thăng quan tiến chức, công việc thuận lợi. Diễn tiến chậm như chắc chắn.

4 – 2 – 1 – 6: Cảnh Tốc Hỷ.
Nôi sinh Ngoại. Âm Dương tương hợp. Đi xa vui vẻ. Mọi chuyện tốt đẹp, bản thân có hao tổn, nhưng hại nhỏ, lợi lớn.
Lưu ý:
Đây là quẻ dự báo khi có cuộc đảo chính ở Liên Xô 1992. Hỏi (Vào giờ Tuất đúng ngày xảy ra đảo chính): Ông Tổng Thống có bị mất chức không? Trả lời: Ông ta đang ở xa, hai ngày sau về. Vẫn làm Tổng Thống. Cuộc đảo chính thất bại. Quẻ nghiệm.

4 – 2 – 1 – 7: Tử Lưu niên
Ngoại sinh nội. Kim Sinh Thủy. Hoàn cảnh bi đát, bế tắc dẫn đến bất lợi cho chủ thể. Chủ sự chết chóc, đau buồn. Thích hợp với những việc không chính danh. Nhưng hậu quả cũng rất xấu sau này. Thí dụ như đi buôn lậu. Gặp quẻ này sẽ thoát nạn tức thời. Nhưng cuối cùng sự việc cũng bị phanh phui. Hậu quả nặng nề. Quẻ nqaỳ khuyên người nên thận trọng, cân nhắc, suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định công việc. Lợi cho sự im lặng, nghiên cứu, tư duy. Nhưng rất chậm.

4 – 2 – 1 – 8: Tử Xích khẩu.
Nội ngoại ngang hòa. Quẻ Thuần kim. Hình tượng của sự kiện cáo, tranh chấp quyết liệt, chiến tranh tàn khốc. Hùn hạp làm ăn bất lợi, tiền bạc hao tán.
Lưu ý: Đây là quẻ xác định cuộc chiến ở Afganixtan giữa Hoa kỳ và Taliban.

4 – 2 – 1 – 9: Tử Vô vong.
Nội sinh ngoại. Hoàn cảnh bế tắc, không được việc. Bi đát , hao tổn. Nhưng cuối cùng vượt qua được.

4 – 2 – 1 – 10: Kinh Tiểu cát
Ngoại khắc nội. Dương Kim khắc Mộc. Khắc sát Dương Mộc, nhưng không khắc Âm Mộc. Chủ sự bất ngờ liên quan đến, học hành , thi cử, giấy tờ....Sẽ thất tình do sự kiện bất ngờ (Trường hợp tình duyên đang nồng thắm), nhưng có tình duyên bất ngờ, hoặc chuyển biến bất ngờ về tình cảm (Nếu đang bất lợi về tình duyên).

4 – 2 – 1 – 11: Kinh Đại An.
Nội sinh ngoại. Chủ sự bất ngờ ở trong bề trên có lợi cho đương số (Chủ thể coi bói). Động đất lớn nhưng không gây tác hại. Về nhà cửa thì nguy nga tráng lệ.

4 – 2 – 1 – 12: Kinh Tốc Hỷ.
Nội Khắc Ngoại. Chủ tin vui bất ngờ. Sự kiện bất ngờ. Nếu đang vui vẻ, gặp quẻ này thì niềm vui không hoàn hảo.

4 – 2 – 1 – 13: Khai Lưu Niên.
Quẻ thuần thủy. Tương đương với quẻ thuần Khảm trong Kinh Dịch. Thành đạt nhờ tư duy sâu sắc. Cần thận trọng với chính mình. Vượng vào Xuân Thu.

4 – 2 – 1 – 14: Khai Xích Khẩu.
Nội sinh Ngoại. Chủ sự tranh luận thành công, danh tiếng. Thuận cho việc quảng cáo, du lịch, hội thảo, họp mặt; kinh doang du lịch lữ hành, nhà hàng. Hùn hạp thành công. Đầu tư lúc đầu hao tốn nhưng sau phát triển...


4 – 2 – 1 – 15: Khai Vô Vong.
Nội khắc ngoại. Nhưng Âm Thổ không khắc Dương Thủy. Tượng nước chảy trên lòng sông. Việc hanh thông, nhưng chủ thể không lợi. Tượng của việc làm phúc, từ thiện, nên hậu vận tốt đẹp. Quẻ này tượng cho người quân tử "Lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ". Kẻ tiểu nhân không dùng được.

4 – 2 – 1 – 16: Hưu Tốc Hỷ.
Ngoại khắc nội. Nhưng Âm Thủy không khắc Dương Hỏa. Hình ảnh: Quân tử được thời (Hỏa Vượng), đem điều chính giáo hóa tiểu nhân. Thất thể (Hỏa suy) giữ mình ẩn dật. Lòng không thay đổi.
4 – 2 – 1 – 17: Hưu Tiểu Cát.
Ngoại sinh nội. Bế tắc nhất thời. sau tốt. Chủ sự kiên trì sẽ thành công.

4 – 2 – 1 – 18: Hưu Đại An.
Nội khắc ngoại. Điều kiện bất lợi. kiên trì sẽ thành công.

4 – 2 – 1 – 19: Sinh Lưu Niên.
Nội sinh ngoại. Hoàn cảnh thuận lợi. Nhưng trong lòng hồ nghi, không quyết đoán. Chuyện xấu mới đến. Cần suy ngẫm chín chắn.

4 – 2 – 1 – 20: Sinh Xích Khẩu.
Nội khắc ngoại. Việc quyết tâm thì sẽ thành, cần bàn bạc kỹ lưỡng. Lợi đến từ tiền bạc, quan hệ. Cẩn thận tranh chấp cữ cãi liên quan đến giấy tờ.

4 – 2 – 1 – 21:Sinh Vô Vong
Ngoại khắc nội. Ngoại lực yếu không được việc, không khắc được. Hy vọng đến, nhưng việc không thành. Lợi cho việc Thổ mộc (Sửa chữa nhà cửa).

4 – 2 – 1 – 22: Thương Tốc Hỷ.
Ngoại sinh nội. Hoàn cảnh tuy khó khăn, nhưng nhờ trí tuệ và sự trong sáng sẽ thành công. ứng xử vui vẻ. Giống như một người bị chủ nợ đến đòi, tiếp họ vui vẻ, cứ hoàn cảnh thực mà khất nợ, sẽ qua được.

4 – 2 – 1 – 23: Thương Tiểu Cát
Nội ngoại ngang hòa. Vượng vào mùa Đông - Xuân. Hợp Hợi Mão Mùi, Thân Tý Thìn. Chuyện tình cảm buồn. Nhưng có hậu về sau. Sự việc thành nhưng chậm.

4 – 2 – 1 – 24: Thương Đại An

Ngoại khắc nội. lợi việc Thổ Mộc (Xây dựng nhà cửa). Chuyện buồn, thương tổn. Nhưng quẻ nội mạnh sẽ qua.

Tổng cộng 24 quẻ Âm Lạc Việt độn toán.

Lưu ý: Trong năm Dương , những quẻ tốt của Bát môn bao giờ cũng đi cùng với những quẻ tốt trong Lục Nhâm và ngược lại.

Như vậy, những năm Dương sẽ có 24 quẻ Dương và năm Âm sẽ có 24 quẻ Âm. Năm nào sử dụng quẻ của năm đó. Trong năm Âm thì quẻ không bao giờ cực xấu và cũng không có cực tốt. Trong năm Dương thì ngược lại, có những quẻ cực xấu và cực tốt.
Trong Lạc Việt độn toán chỉ có 48 quẻ, nhưng vì tính phân Âm Dương trong từng năm khi toán quẻ, nên thực tế mỗi năm chỉ dùng 24 quẻ. Sự thay đổi 24 quẻ trong từng năm nằm ở Lục Nhâm.

Phương pháp luận quẻ Lạc Việt độn toán

So với các phương pháp dự báo khác, Lạc Việt độn toán là con đường ngắn nhất để tới đỉnh cao của cảm thông Thiên Địa. Nhưng chính bởi phương pháp độn quẻ đơn giản, nên đòi hỏi người toán quẻ phải có cảm ứng nhậy cảm và có sự rèn luyện cảm ứng trong tất cả các cấp của nó. Các phương pháp độn toán khác thì vì tính phức tạp của phương pháp phân tích quẻ, nên người học bị chấp vào phương pháp tính toán phức tạp nên khả năng cảm ứng sẽ thấp hơn. Nhưng tất cả mọi con đường đều tới La Mã.

1 – Cảm ứng và cấp độ luận giải

1 – 1:
Tính cảm ứng trong Lạc Việt độn toán:
Đây là yếu tố quan quan trong cần khi luận quẻ, không chỉ trong Lạc Việt độn toán mà trong bất cứ phương pháp tiên tri nào. Nó là một yếu tố cần, không thể thiếu và có tính quyết định tính chính xác khi luận quẻ. Kết hợp với yếu tố là nội dung câu hỏi đã trình bày ở trên, nếu không có cảm hứng thì dù đã định hướng được quẻ do câu hỏi cũng sẽ luận sai. Bởi vậy, trường hợp không có cảm hứng, hoặc bị chi phối thì quẻ sẽ bớt tính chính xác, hoặc tệ hơn nữa là sẽ sai.

Cảm hứng luận quẻ được tạo ra chính là do người hỏi quẻ hòa nhịp đúng với cảm hứng luận quẻ của người tư vấn. Bởi vậy, một trong những phương pháp của Lạc Việt độn toán là tính giờ độn quẻ căn cứ vào cảm hứng của chính người độn, do người độn quyết định, chứ không tính theo giờ hỏi quẻ.
So với các phương pháp dự báo khác, Lạc Việt độn toán là con đường ngắn nhất để tới đỉnh cao của cảm thông Thiên Địa. Nhưng chính bởi phương pháp độn quẻ đơn giản, nên đòi hỏi người toán quẻ phải có cảm ứng nhậy cảm và có sự rèn luyện cảm ứng trong tất cả các cấp của nó. Các phương pháp độn toán khác thì vì tính phức tạp của phương pháp phân tích quẻ, nên người học bị chấp vào phương pháp tính toán phức tạp nên khả năng cảm ứng sẽ thấp hơn. Nhưng tất cả mọi con đường đều tới La Mã.

Cảm ứng trong khi hướng về đối tượng phải vô tư, trong sáng và khách quan. Nói theo ngôn ngữ cổ tức là không để tạp niệm và bị chấp. Bởi vậy, người xưa dùng biện pháp thắp nhang và khấn vái nhằm tập trung tư tưởng. Hình thức này dễ bị coi là "mê tín dị đoan". Đời sau chỉ biết ứng dụng phương pháp mà không hiểu tại sao, nên không lý giải được mối liên hệ giữa sự khấn vái và sự ứng nghiệm của quẻ. Thực ra đó chỉ là một hình thức tập trung tư tưởng.
Quẻ Lạc Việt độn toán rất dễ học. Chỉ cần tập trung trong nửa ngày, các bạn quan tâm có thể thành thạo lập quẻ. Nhưng sự khó khăn và cũng là chỗ vi diệu của Lạc Việt độn toán chính là ở chỗ luận quẻ. Liên hệ từ tên và tượng quẻ , bạn có thể cảm ứng luận đến tận cùng của tất cả những sự kiện đến trong những điều muốn biết. Giống như một vạt nắng chiều gây cảm hứng cho nhà thơ, quẻ Lạc Việt độn toán gây cảm hứng cho nhà tiên tri, giúp đạt đến sự tận cùng sự vi diệu qua sự thăng hoa trong cảm hứng của bạn.
Tất cả các phương pháp tiên tri khác, đều có công thức chặt chẽ và phức tạp.thậm chí có thể lập trình cho từng quẻ, dù phương pháp đó phức tạp đến đâu và lập ngay cả những lời giải đoán, nhưng điều này là không thể với Lạc Việt độn toán.
Sẽ không có một trình nào hoàn chỉnh cho một phương pháp tiên tri của nền Lý học Đông phương với lời giải các kết quả của nó. Bởi vì, không ai có thể lập trình được toàn bộ sự tương tác vũ trụ cho một hành vi nhỏ nhoi của con người.
Những câu hỏi là vô định cho cùng một quẻ, mà quẻ lại phụ thuộc rất lớn vào chính câu hỏi. Lập trình chỉ là động tác đơn giản hoá lao động khi phải viết hoặc tính cách lập quẻ bằng tay mà thôi, trong khi còn nhiều sự huyền vĩ chưa đuợc khám phá.
Bởi những nguyên nhân tương tác phức tạp không thể dùng lý trí và sự hiểu biết giới hạn của cá nhân đối với sự thiên biến vạn hoá của thiên nhiên, cuộc sống và con người, cho nên tính cảm ứng được đặc biệt coi trọng trong dự báo. Cảm ứng càng cao, tri thức càng rộng thì dự báo càng chính xác.

Cảm ứng phải có định hướng về đối tượng cần hỏi. Nếu không định hướng được đối tượng - dù rất mơ hồ và trừu tượng (Thí dụ:hỏi ’’Năm nay điều gì xẩy ra?” - là một câu hỏi trừu tượng với nhiều đối tượng) - thì trong thế gian tỷ tỷ đối tượng, không có định hướng thì sẽ không thể luận quẻ được. Trong trường hợp này chỉ có thể cảm ứng được những vấn đề chính.
Cảm ứng và tri thức của người tư vấn phải từ hình tượng của quẻ đã độn được, để xác định, một hay nhiều yếu tố cấu thành nên đối tượng, hoặc luận ra toàn thể hính thái đối tượng đó . Bởi vậy, sự hiểu biết càng rộng, suy đoán càng chính xác.
Tất cả những yếu tố nêu trên cho thấy: yếu tố cảm ứng của người độn quẻ với câu hỏi tự thân hay khách quan do ngươì khác hỏi là rất quan trọng trong Lạc Việt độn toán. Sự chính xác của Lạc Việt độn toán và khả năng tiên tri của nó, hoàn toàn phụ thuộc vào độ cảm ứng của chính tâm hồn nguời độn quẻ .

Nếu độn được nhiều quẻ khác nhau, do ở nhiều địa phương có múi giờ khác nhau, hoặc cùng một địa phương nhưng luận nhiều quẻ trong những giờ khác nhau cho cùng một sự việc thì trường hợp này – giả thiết quẻ nghiêm - mỗi quẻ sẽ chỉ ra một hoặc nhiều yếu tố khác nhau cấu thành nên sự vật hoặc sự việc cần dự báo. Vì tính chất khác nhau của các yếu tố khác nhau cấu thành nên sự vật hay sự việc cần dự báo, nên quẻ khác nhau .
Bởi vậy, khi độn quẻ xong thì quẻ đã cho chúng ta thấy một phần của yếu tố cấu thành nên đối tượng. Điều này giống như một cái xe hơi bị bịt gần kín mít và chúng ta chỉ nhìn thấy một bộ phận - yếu tố cấu thành xe hơi - của nó và chúng ta phải luận ra toàn thể chiếc xe hơi. Tất nhiên, nếu chúng ta có kiến thức về chiếc xe hơi thì chúng ta sẽ luận ra chiếc xe hơi. Còn nếu chúng ta không có kiến thức về chiếc xe hơi thì có nhìn cả cái xe cũng không hiểu nó là cái gì, vì nếu chúng ta sống ở thời chưa có xe hơi, thì cùng lắm cúng chỉ luận ra cái xe mà thôi.

Như tất cả các phương pháp dự báo phương Đông khác, quẻ Lạc Việt độn toán có thể đoán từ chi tiết của vụ việc nhỏ và khái quát đến những vụ việc lớn . Ưu điểm của Lạc Việt độn toán là học rất dễ ,nắm vững nhanh phương pháp độn quẻ, có thể trả lời nhiều câu hỏi một lúc với điều kiện không bị lạc quẻ. Những việc bình thường trong sinh hoạt và đời sống thì chỉ cần một tri thức trung bình hoặc sự từng trải đều luận được. Nhưng để luận quẻ Lạc Việt độn toán ở trường hợp có tính qui mô lớn như: sóng thần, đại dịch...vv – tóm lại là có tính quốc tế, diện rộng - cần phải có một tư duy logic cao và kiến thức sâu .

1 – 2:
Các cấp độ và khả năng luận giải Lạc Việt độn toán

1 – 2 – 1:
Cấp I của Lạc Việt độn toán:
Ở cấp này chỉ cấn thông thạo các 9ộn quẻ, sự cảm ứng và câu hỏi chỉ đơn giản dùng quẻ để dự báo trong sinh hoạt thường ngày, tự thân tính chất quẻ đã cho biết sự việc tốt xấu, nên dễ đoán trúng .Lúc đầu thì tra sách để xem .Khi đến đỉnh cao của giai đoạn này, sẽ không cần dở sách nữa mà ý nghĩa từng quẻ đều thuộc làu và cộng với kinh nghiệm đoán sẽ dễ trúng.

1 – 2 – 2:
Cấp II của Lạc Việt độn toán:
Đến cấp II thì đối tượng cần biết đã bắt đầu phức tạp vì vượt qua giới hạn của sinh hoạt quanh ta. Bởi vậy cảm ứng của chúng ta phải rất nhậy cảm, tâm phải vô tư, kiến thức rộng và nhuần nhuyễn phương pháp luận khi giải quẻ thì dự báo mới chính xác. Nhưng ở cấp này, vẫn nằm trong các quẻ độn và không vượt ra được phương pháp luận và cảm ứng trong 48 quẻ Lạc Việt độn toán.
Đến cấp này cần phối hợp những quy luật sinh khắc của Ngũ hành trong không thời gian, Như tiết khí, hành khí của tháng, năm, mệnh vận của người cần tư vấn tương tác với quẻ.

1 – 2 – 3:
Cấp III của Lạc Việt độn toán:
Lúc này cảm ứng đã thuần thục, sự nhậy cảm tăng cao, không cần đến quẻ mà chỉ cần nhìn tượng có liên quan đến quẻ để phán xét. Lúc này tượng có trước và quẻ có sau. Không phân biệt quẻ Âm hay quẻ Dương.
* Thí dụ:
Một ô tô lớn phóng nhanh trên đường gây cảm ứng bất ngờ vì xốc do chiếc xe lớn chạy nhanh đưa lại tượng quẻ Kinh - Xích khẩu nên luận rằng: sẽ có tai nạn lớn sau đó. Đây là trướng hợp giông như Thiệu Khang Tiết cảm ứng với tiếng chim phương Bắc, nhưng hót ở phương Nam. Đoán rằng: Nhà Nam Tống sắp mất .
* Thí dụ:
Có người lấy nicknem ’’Nắng Chiều” nhờ tư vấn chuyện tình cảm .
Tôi đã cảm hứng luận quẻ theo nicknem này: Nắng Chiều là tựa của bài hát về những kỷ niệm cũ nơi quê nhà. Nắng chiều không gay gắt, nhưng gợi nhớ quá khứ của một ngày đã qua của những người yêu nhau Họ còn nhớ đến nhau, nhưng cuộc sống đã làm tình cũ chỉ còn là kỷ niệm cho mỗi khi trống vắng trong tâm hồn.
Nắng chiều là sự tiếc nuối ngày qua, chứ không còn là tình yêu, tình người mãnh liệt.
Nắng chiều là cái đến tất nhiên sau trưa hẻ, chứng tỏ họ đã một thời sống với nhau, rất nồng ấm, chân thành và trải lòng cho nhau, không hề gian dối.
Nắng chiều chỉ còn ở phía cuối xa xa, phải chăng họ đã không còn bên nhau, mà mỗi người mỗi nới, chân trời góc biển.
Nắng chiều tượng của mùa thu mà cả không gian cũng hiu hắt với tình người.
Bởi vậy với sự suy luận này thì cần nhanh lên để giữ lại hoàng hôn. Đừng để chiều tím phủ chân trời thì tình đi không trở lại.l
Nắng chiều sẽ chỉ đẹp cho đến hết tháng 8 Âm lịch. Sau đó là ’’Chiều Tím’’.

Bản thân Nắng Chiều đã xác nhận chính xác 100% về cả quá khứ lẫn hiện tại.

1 – 2 – 4:
Cấp IV của Lạc Việt độn toán:

Đến cấp IV trong lý gọi là cảm thông Thiên Địa, không cần gieo quẻ nữa. Lúc này chỉ thấy là biết, tâm hồn thanh tịnh, vô tư, vô tính, trút bỏ tham hận và nhận thấy vũ trụ, trời, người cùng vạn vật, cỏ cây đều đồng nhất thể. Đây là lúc nhìn thấy gì nói nấy, cứ thế mà toán… Không chỉ Lạc Việt độn toán mà hầu như khắp trong các phương pháp dự báo Đông phương đều có thể đạt đến cấp này.
Đức Phật nói:
"Một con cá vẫy đuôi, có thể chấn động tam thiên, đại thiên thế giới".
Lúc ấy, khi thốt nhiên hạnh ngộ, nhận thấy vô thường, vạn vật nhất thể cảm ứng mà đoán mọi chuyện thế gian. Đó chính là sự tương quan tương hợp, là đỉnh cao nhất của cảm ứng tiên tri.
Ông Trịnh Xuân Thuận có viết:
Để giải thích bất cứ một hiện tượng dù rất nhỏ, cũng phải viện dẫn đến lịch sử của toàn thể vũ trụ.

Tôi quan niệm rằng:
Tất cả các phương pháp dự báo tiên tri đều phải là hệ quả của một hệ thống nguyên lý lý thuyết đã hoàn chỉnh trước đó.

2 - Lac Việt độn toán luận giải

2 – 1: Điều đặc biệt cần chú ý là luận quẻ liên quan rất chặt chẽ đến câu hỏi.
Nếu không căn cứ vào câu hỏi thì không có cơ sở luận quẻ. Chính vì tính đa dạng của cuộc sống và của mỗi con người chúng ta, cần xác định được mục đich của câu hỏi và suy xét, cân nhắc kỹ từng từ của câu hỏi. Trong Lạc Việt độn toán, cùng một quẻ như nhau, cùng một sự việc giống nhau cho một người hỏi; nhưng cách hỏi khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau. Câu hỏi là một yếu tố tương tác rất quan trọng trong việc toán quẻ Lạc Việt độn toán. Bởi vì bản thân danh tự của quẻ Lạc Việt độn toán sẽ không nói lên điều gì, ngoài dịnh tính tốt xấu đơn giản. Nhưng trước một câu hỏi kết hợp với quẻ độn được thì chính câu hỏi là sự định hướng cho việc luận quẻ từ tính chất quẻ đó, để dự báo hay tìm hiểu bản chất sự việc.
Thí dụ:
Với một quẻ Sinh Tiểu Cát thì tự danh tính của quẻ đó sẽ không nói lên điều gì. Nhưng nếu có một câu hỏi – như là: ’’Liệu tôi làm việc này, hoặc chuyện kia thì tốt hay xấu”...vv.... thì chính câu hỏi đã định hướng cho việc luận quẻ Sinh Tiểu Cát, vốn là một quẻ tốt.
Hoặc:
Cũng cùng quẻ Sinh Tiểu Cát, nhưng với câu hỏi:”Chúng tôi định đầu tư làm ăn lớn được không?” thì quẻ này cho thấy không được vì tính chất của quẻ chỉ là tiểu lợi và sự mạnh
Như vậy, cùng một quẻ, cùng một sự việc, nhưng cách hỏi khác nhau đã cho kết qủa khác nhau trong khả năng tiên tri .

2 – 2 :
Kết luận:
Luận quẻ, cần chú ý phân tích nội dung câu hỏi. Hiểu sai câu hỏi sẽ định hướng sai khi luận quẻ.

3 – 1:
Luận giải và ý nghĩa của quẻ

3 – 1 – 1: Luận và giải quẻ đơn giản.
Một quẻ được coi là đơn giản khi câu hỏi chỉ mang một ý nghĩa đơn tuyến khi giải quẻ. Quẻ đơn giản chỉ để trả lời cho các trường hợp là xấu – tốt, thắng – thua, đuợc - mất, vui - buồn, nên - không v.v… .
Quẻ Lạc Việt độn toán có thể luận từ đơn giản đến phức tạp. Đơn giản nhất là luận theo ý nghĩa trực tiếp của quẻ, thí dụ: Tử là chết, Vô vong là không được việc gì. Vậy Tử Vô vong là một quẻ xấu, việc bất thành, bế tắc....
Ta thấy trong quẻ Lạc Việt độn toán,việc đầu tiên cần nhìn tổng quát tượng quẻ để thấy kết quả dự báo của việc cần toán, ý nghĩa trực tiếp của tên quẻ. Tên quẻ biểu hiện cho tượng quẻ và tượng quẻ cho biết ngay sự tốt xấu.sẽ có ngay câu trả lời cho những trường hợp đơn giản trên. Đây là phương pháp luận quẻ đơn giản nhất. Phương pháp này có thể áp dụng cho mọi trình độ.
* Ví dụ:
Một học viên lớp Lạc Việt độn toán thấy nguời bạn lo cho sức khỏe của nguời thầy vì thấy thầy không được khỏe, hình như bị bệnh, bèn độn một quẻ hỏi sức khoẻ của thầy.
Tháng 3 ngày 6. Giờ Mùi năm Bính Tuất – 2006.
Quẻ: Sinh - Ðại An.
Luận quẻ: thầy vẫn khỏe, chỉ làm việc nhiều quá nên hơi mệt.

3 – 1 – 2: Luận và giải quẻ phức tạp.
Một quẻ được coi là phức tạp vì tính phức tạp của sự vật hay sự việc cần giải đoán, dẫn đến phương phápm luận quẻ phức tạp. Để luận đoán loại câu hỏi này cần vận dụng sự tương tác của Âm Dương Ngũ hành thể hiện trong quẻ, hoặc phải dùng quẻ độn để tìm hiểu sâu bản chất sự vật, sự việc cần luận đoán.

* Ví dụ:
Anh Killbill yêu cầu dùng Lạc Việt độn toán để đoán một vật anh mới mua được. Đề nghị chio biết là vật gì?
Các học viên Lạc Việt độn toán lần lượt toán quẻ như sau:
Quẻ của Ninh Thuận:
Khai Đại an .
Ninh Thuận đã thấy Khai Thuỷ liên quan đến nhạc - Thuỷ có tính chất sóng tượng âm thanh. Đại an là cái hộp màu vàng và to. Khai còn có nghĩa là một vật dài kèm với một vật to màu vàng và âm thanh "khai" từ đó mà ra.

* Quẻ của What:
Tử Đại An.
Quẻ này luận ra cây đàn - Tử Kim trên cái thùng gỗ màu vàng và to. Thùng gỗ màu vàng sinh kim, tức dây đàn. Trong cây đàn guita, thùng gỗ là thể của cây đàn và nó là lý của âm thanh trên cây đàn.

* Quẻ của Mai Trâm:
Sinh Tốc Hỷ là mới có một niềm vui. Đây là một giá trị văn hoá, Tốc Hỷ là ánh sáng, là văn hoá .
Quẻ độn: Thương Xích khẩu
Thương là buồn là trạng thái tình cảm, Xích Khẩu là nói lên trạng thái đó. Xích khẩu Kim chính là âm thanh phát ra từ dây đàn để nói lên tình cảm Thương Mộc. Chính là cây đàn.
Như vậy, chúng ta thấy rằng: Cả 3 quẻ dù khác nhau đều có khả năng luận ra cây đàn và một quẻ đã luận đúng. Qua đó ta thấy khi trong tâm tưởng chúng ta nghĩ về một đối tượng do tác động của câu hỏi thì chính cảm ứng của chúng ta sẻ đưa suy luận theo chiều hướng đó. Vì vậy mỗi quẻ dù khác nhau đều khai thác những yếu tố khác nhau của đối tựơng cần khám phá hay nói cách khác:mỗi quẻ chỉ ra một hoặc nhiều yếu tố khác nhau cấu thành nên đối tượng cần khám phá . Vì tính chất khác nhau của các yếu tố khác nhau thuộc về đối tượng cần khám phá, nên quẻ khác nhau. Điều nay tương tự như nhà khảo cổ khám phá ra một khúc xương của co9n Khủng long và suy luận ra toàn bộ hình thể của con Khủng long khi còn sống.

3 – 1 – 3: Tính khách quan của quẻ và lợi ích của con người.

Lạc Việt độn toán có tính qui luật và khách quan. Cũng như thiên nhiên không có tốt xấu. Những quan niệm tốt và xấu là do con người quan niệm. Ngày tốt mà con người khai trương lại là ngày xấu của con heo bị mổ làm vật cúng tế. Trên cơ sở này người luận đoán theo bất cứ phương pháp nào – Bốc Dịch, Mai Hoa, Lạc Việt độn toán ....- cần khách quan và chiêm nghiệm về quy luật của thiên nhiên xã hội và con người thể hiện qua quẻ toán được – vốn bản chất chỉ là phản ánh một giai đoạn tồn tại của tự nhiên ứng với quẻ và không có tốt xấu. Bởi vậy, quẻ tốt hay xấu còn tuỳ thuộc vào sự việc cần hỏi và đối tượng, tùy tính chất câu hỏi và nguời đặt câu hỏi
Ví dụ trong năm Ất Đậu 2005 - quẻ Cảnh Tốc Hỷ được coi là quẻ tốt nhất, Tử Lưu Niên là quẻ xấu nhất.
Nhưng sự xấu tốt đó phần nhiều phụ thuộc vào ý niệm phổ biến của con người. Bản chất của quẻ chỉ phản ánh tính chất của qui luật thiên nhiên phản ánh qua tượng quẻ.
* Ví dụ:
Một người già bệnh nặng gần chết. Thân nhân hỏi: Người này có chết không? Quẻ ra là Cảnh Tốc Hỷ thì chưa thể luận là người này sẽ sống khỏe mạnh và sẽ đi du lịch được. Bản chất của quẻ chỉ là sự nhàn hạ và nhanh chóng. Trường hợp cụ thể này phải luận là người bệnh sẽ chết nhanh và thanh thản.

* Ví dụ: Nếu đánh đề, bán độ trong trận bóng mà gặp wẻ Tử Lưu Niên thì vụ bán độ đã không bị phát hiện (Nếu là nguời bán độ đặt câu hỏi). Vì Tử - là chết, là ngăn chặn thuộc hành Kim, sinh Lưu Niên - Âm mưu, lừa lọc - thuộc Thuỷ. Do đó với quẻ Tử Lưu Niên thì Tử Kim sinh Lưu Niên Thuỷ, nên việc thành. Tuy nhiên vì bản chất quẻ xấu. Bởi vậy, nếu nghiện cờ bạc, làm việc mờ ám thì sớm hay muộn cũng vướng vào pháp luật.

3 – 1 – 4: Tính giới hạn của quẻ và sự phong phú của cuộc sống.
Cũng như cac phương pháp dự báo khác. Quẻ thì giới hạn. Như Bộc Dịch chỉ có 64 quẻ, Lạc Việt độn toán 48 quẻ. Nhưng cuộc sống thì muôn hình vạn trạng mà quẻ cần chiêm đoán. Bởi vậy, mỗi một quẻ phải quản hành trăm ngàn sự việc sự vật. Như bàn về nghề nghiệp gặp quẻ Khai Xích khẩu thì cũng có hàng trăm nghề liên quan đến quẻ này:
Tiếp thị, ngoại giao, trực điện thoại, cô thày giáo, nhà hàng, phát thanh viên, luật sư...vv. Ngồi trước màn hình lên mạng cũng là Khai Xích Khẩu (Xích Khẩu: cái miệng - màn hình. Khai: đường truyền).đó là chưa kể đến những nghề rất lạ đang xuất hiện vượt ra ngoài kiến thức phổ thông. Bởi vậy, đôi khi trước sự muôn vẻ của cuộc sống , người luận đoán cần tham vấn thân chủ. Như khi được hỏi về sự thành công trong nghề nghiệp thì nên hay hỏi thẳng: Anh/ Chị làm nghề gì rồi sau đó mới khớp lại với quẻ xem có hợp không. Ngoài mấy nghề chính - có từ ngàn xưa dễ đoán vì mang tính khái quát là: Sĩ, công, nông, thương, võ nghiệp, quan lại...còn những nghề mới bây giờ thì rất khó đoán chính xác. Bởi vậy cần kiến thức rông và suy doán logic phù hợp với hoàn cảnh.
ví dụ:
Khi tôi ở Hanoi, một người bạn rất thân chỉ vào cửa hàng văn phòng phẩm và nói:
- Tớ muốn mua tặng cậu một món quà làm kỷ niệm . Nghe nói cậu bói toán giỏi lắm. Vậy đố cậu, tớ định mua cho cậu cái gì ?
Vì là bạn thân, tôi chẳng câu nệ, độn được ngay quẻ: Khai Tiểu Cát . Tôi luận rằng: Khai là một vật dài, Tiểu cát là giá trị nhỏ, niềm vui nhỏ, chủ về tình cảm. Khai Thuỷ dưỡng Tiểu Cát Mộc . Như vậy vật này nhằm mục đích kỷ niệm cho một tình cảm, chứ không phải mua chỉ để dùng.
- Cậu đoán đúng rồi ! Nhưng nó là cái gì?
Thật khó quá! Tôi nghĩ chỉ có thể là cái bút hoặc quyển sách! Nhưng cũng ko phải vì đây là lý tương sinh Khai Thuỷ dưỡng Tiểu Cát Mộc thì vật này bền vững về thời gian. Tiểu Cát Mộc lại là trong cửa hàng văn phòng phẩm, nên tôi đoán là cái bút.
- Thế mà cũng đoán ! Bạn tôi cười.
Thì ra anh ấy mua tặng tôi cái cà vạt . Tôi cự lại:
- Cậu chỉ vào cửa hàng văn phòng phẩm bảo đoán thì đến tài Thánh tớ cũng ko tưởng tượng được là trong đó lại có thể bán cà vạt.
Thông thường các cửa hàng văn phòng phẩm không bán cà vạt.

Qua đó để bạn đọc thấy: Quẻ không sai. Nhưng vấn đề là ở chỗ luận thế nào và nó tuỳ thuộc vào sự hiểu biết với điều kiện môi trường. Nếu như tôi vào trong cửa hàng đó quan sát thì may ra có thể đoán là cái cà vạt.
Trong bất cứ trường hợp nào, để luận đúng đến chi tiết một cách chính xác thì phải có kiến thức rộng về vấn đề liên quan .
Thiếu tri thức thì chỉ đoán chung chung được thôi . Cụ thể trong trường hợp trên, phải có kiến thức - thấy được - về các mặt hàng bán trong cửa hàng văn phòng phẩm, để đoán ra cái cà vạt trong hàng trăm mặt hàng của cửa hàng . Còn ko biết trong đó nó bán cái gì thì ...chịu.

Bởi vậy, những người muốn ứng dụng các phương pháp dự báo rất cần kiến thức rộng về nhiều phương diện. Kiến thức càng rộng khả năng luận đoán càng chính xác. Bởi vậy những người dự đoán xuất sắc thuờng là người uyên bác. Điều này đúng với tất cả các bộ môn dự đoán.

3 – 1 – 5: Quẻ và sự phản ánh cục bộ sự việc.
Quẻ đôi khi chỉ phản ánh cục bộ sự vật hay sự việc. Thí dụ điển hình là việc luận đoán cây đàn guita ở trên. Bởi vậy, người luận đoán cần có kiến thức rộng để từ một phần của sự vật, sự việc suy luận ra toàn bộ sự việc.
Với giả thiết quẻ luôn luôn ứng đúng sự việc nhưng do trình độ giải đóan thường hạn chế, nhất là đối với nguời mới học nên kết quả giải đóan có khi đúng có khi sai, do ý nghĩa của quẻ thường thể hiện trong thực tiễn dưới nhiều hình thức muôn màu muôn vẻ nên người gỉải đoán nhiều khi không hình dung được hết các tình huống, cũng có khi người hỏi chỉ căn cứ vào câu hỏi của mình để đánh giá đúng sai trong khi quẻ lại ứng vào phương diện khác của câu hỏi mà người hỏi vô tình không nghĩ tới.
Một kinh nghiệm nữa là để chi tiết thêm về điều cần đoán: khi đã hiện quẻ và nêu đuợc bản chất nội dung sự việc có thể cần phải hỏi thêm hoặc yêu cầu thân chủ mô tả thêm chi tiết điều ta cần đoán để xem có ứng đúng với điều đoán không thì việc luận đoán sẽ theo sát và đúng hướng chúng ta đưa ra.

Ví dụ trường hợp có người hỏi về việc giấy tờ xuất ngoại. Tôi không căn cứ vào thời gian hỏi quẻ mà độn theo giờ tôi coi quẻ. Cụ thể là:
Người hỏi vào giờ Tỵ ngày 21 tháng 19.
Nhưng tôi lấy quẻ vào giờ Thìn, ngày 22 tháng 10 năm Ất Dậu:
Quẻ Tử Lưu Niên cho việc giấy tờ.
Quẻ Tử Lưu Niên có nghĩa đen là chết và giữ lại thời gian.Quẻ này phù hợp với hiện trạng đang lo lắng của người hỏi. Lưu Niên trong trường hợp này là lo lắng, suy nghĩ trước một thực trạng khó khăn (Tử - nghĩa là chết rồi, bị chăn lại, không còn hy vọng gì). Lưu Niên cũng còn có nghĩa là họ đã tiến hành làm việc này từ lâu - ít nhất là trên 6 năm. Khi làm thủ tục để đi cũng chẳng hy vọng gì. Tử có nghĩa là hoàn cảnh bên ngoài như: điều kiện giấy tờ khó khăn, không hoàn chỉnh, phải bổ xung mất thì giờ và chờ đợi.

Nhưng Tử thuộc Kim sinh Lưu niên Thuỷ. Nên tuy có khó khăn vậy, nhưng về căn bản họ lại có thế mạnh như là sự ưu tiên hoặc mối quan hệ với người bảo lãnh tốt, hoặc sự bảo lãnh chính danh phù hợp với chính sách nhập cư của nước sở tại. Nên cuối cùng họ sẽ vượt qua được, tuy lâu.

Quẻ độn là Kinh Tốc Hỷ. Cho thấy họ sẽ có bất ngờ vào phút chót và vượt qua được hoàn cảnh. Tốc Hỷ Hoả là bản mệnh của họ, là nội hàm của sự việc thắng Kinh Kim. Quẻ Tử - Kinh là điều kiện môi trường đều thuộc Kim. Kinh còn có nghĩa là nước lớn nên cũng có thể luận là một cường quốc lớn phương Tây, có thể là Hoa Kỳ.

Với quẻ này thì cuối xuân hoặc đầu hè sang năm họ sẽ đi.
Quẻ nghiệm.

3 – 1 – 6: Nhiều người cùng luận một việc.
Trường hợp đặc biệt này thường chỉ xảy ra khi luận đoán những sự kiện lớn trong xã hội được nhiều người quan tâm; như cuộc chiến tranh Vùng Vịnh....Hoặc được thực hiện bởi một nhóm tư vấn dự báo các sự kiện mang tính xã hội, hoặc quốc gia; như Hội Chiêm tinh Hoàng gia Thái Lan.....
Khi rơi vào trường hợp này thì về nguyên tắc ”chân lý chỉ có một” nên tất cả các quẻ nghiệm đều phải nhất quán cho diễn biến trong tương lai của sự việc và phản ánh đúng toàn bộ hay một phần sự việc. Cho dù dùng phương pháp dự báo nào: Lạc Việt độn toán, Bốc phệ, Mai hoa.....Xét riêng Lạc Việt độn toán, nếu quẻ nghiệm thì dù ra quẻ khác nhau, nhưng để dự báo một việc như nhau thì cũng sẽ rơi vào trường hợp trên: Hoặc phản ánh toàn bộ sự việc, hoặc một phần sự việc và tất cả phải nghiệm đúng một cách nhất quán cho diễn biến tương lai của sự việc.
Trong cổ thư có ghi nhận về phương pháp ứng sử của nhà vua với các quẻ dự báo mà một phần trong đó được miêu tả như sau:
-Nếu ba người cùng bói ra quẻ khác nhau thì vua theo hai người.
Nhưng đây chính là điều cần lưu ý:
Điều kiện này chỉ được coi là đúng với ba người (hoặc hơn) đều nắm vững phương pháp dự báo và tài năng ngang nhau. Dự báo là một khoa học thực sự như tất cả các bộ môn khoa học khác, được thừa nhận trong tiêu chí khoa học. Tất nhiên đã là khoa học thì không lệ thuộc vào số đông. Ngày xưa khi vua Lý bị bệnh nan y, số đông những nhà lương y tài giỏi thời bấy giờ đều bó tay. Nhưng một mình hòa thượng Khổng Minh Không đã chữa được cho nhà vua. Do đó, nguyên lý theo số đông trong dự báo là một việc cần xem xét, nó chỉ có khả năng đúng trong điều kiện tôi đã trình bày ở trên.
Chúng ta cùng quán xét hiện tượng thực tế dưới đây, minh họa cho trường hợp này

Năm 2006 – Bính Tuất. Nước Pháp đang rộn lên vì luật lao động mới. Nghiệp đoàn và sinh viên rầm rập biểu tình. Sự việc chưa ngã ngũ nên mới chứng tỏ được sự linh nghiệm của Lạc Việt độn toán.

Hai học viên lớp Lạc Việt độn toán là What và Luke cùng dự đoán cho câu hỏi:
- Bộ luật lao động của chính phủ Pháp có được thi hành không?
- Cuối cùng cái gì sẽ xảy ra liên quan đến bộ luật lao động này?

Học viên What:
Quẻ Tử Tốc Hỷ. Tốc Hỷ thuộc Hỏa,chủ về may mắn thành công. Tử thuộc Kim là khó khăn trắc trở... Bộ luật này sẽ được áp dụng trên nước Pháp trong vòng 2-7 tháng nữa. Hơn nữa, dân Pháp có truyền thống biểu tình đình công. Nên đâu lại vào đó. Ai biểu tình cứ biểu tình, chính phủ biểu áp dụng thì cứ áp dụng.

Quẻ độn: Kinh Xích khẩu là sẽ có sự đối đầu quyết liệt giữa các nghiệp đoàn và sinh viên với chính phủ Pháp. Hai hành Kim đối chọi nhau chan chát. Xích Khẩu tức là sự đối thoại, hô hào đình công bãi thị rất lớn. Cuối cùng thì chính phủ Pháp sẽ dùng quyền lực của mình (Kinh) để quyết đoán vấn đề, chấm dứt mọi sự chống đối theo luật pháp qui định.
Chủ thể của câu hỏi là "Bộ luật lao động" ứng với Tốc Hỷ Hoả thắng kim. Chứng tỏ nó sẽ được áp dụng vào mùa hè này. Nhanh là tháng 4 (Hai tháng sau) , Chậm là tháng 7/ 8 Âm lịch. Bộ luật này sau khi áp dụng còn tiếp tục gây tranh cãi và sẽ là đề tài của phe đối lập trong chính trường Pháp về sau (Kinh Xích khẩu ).

Học viên Luke:
Năm Bính Tuất, tháng 2 ngày 28, giờ Tuất.
Quẻ: Sinh - Đại An. Đây là sự áp đặt từ bộ máy lập pháp nên sẽ rơi vào tình trạng "trên bảo dưới đành nghe". Quẻ này cho thấy điều luật này ít nhiều cũng có mặt tích cực của nó và là khởi mào cho một cuộc cải tổ và mang tính bắt buộc.
Chống đối là có, nhưng chỉ từ những người dân thấp cổ bé họng mà thôi.
Bộ luật lao động chắc chắn sẽ được thi hành. Thời gian thi hành là tháng 8 âm lịch.

Quẻ độn Thương - Lưu Niên. Điều gì sẽ xảy ra sau đó?
Dư luận sẽ xôn xao, người dân sẽ hoang mang. Sẽ có những cuộc đình công nhưng sẽ không có những hành động cực đoan, nhưng rồi thì người dân cũng phải chấp nhận bộ luật này thôi.
Quẻ nghiệm .

3 – 2: Quẻ độn

Ưu điểm của quẻ Lạc Việt độn toán là có thể xem cho nhiều người một lúc và trả lời nhiều câu hỏi một lúc, chính là nhờ quẻ độn. Nhưng cần lưu ý tất cả những quẻ độn trong một giờ đều là những phần tử tập hợp của quẻ trong giờ đó và chịu ảnh hưởng của quẻ chính chủ giờ đó.
Ví dụ: Kinh –Vô vong /năm duơng/là một quẻ xấu, quản một giờ mà chúng ta độn được. Như vậy tất cả những quẻ độn trong giờ này dù tốt thì cũng chỉ là những hiện tượng trong một phạm trù xấu và ngược lại.
Trong cùng một giờ, có từ hai người trở lên cần vấn quẻ thì người đầu tính vào quẻ chính ,người thứ hai tính vào quẻ độn kế, người thứ 3 tính vào quẻ độn tiếp theo nữa....
Một người hỏi nhiều việc thì cứ thế độn tiếp.Trường hợp này chỉ ứng dụng đông người và coi liên tục, cần chú ý vì rất dễ lạc quẻ .
Tôi đã có lần xem cho 2 cô bé cùng tuổi, đến cùng một giờ, tuổi bố mẹ như nhau, chỉ khác có tuối và giới tính người em út. Trường hợp này phải ứng dụng độn quẻ.
Tuy nhiên Lạc Việt độn toán cũng có mặt hạn chế hơn so với Bốc Dịch là khó đoán thật chính xác về thời gian .
Ví dụ :
Trong cuộc chiến vùng Vịnh II - kết hợp với Tử Vi của ông Hussen - tôi chỉ đoán được: "Cuối tháng hai xảy ra chiến tranh và đầu tháng ba Âm lịch kết thúc". Trong khi đó Thiên Cơ dùng Dịch đoán chính xác tới ngày chiến tranh, và Dương Tường (Tức Thanh Long) thì dung sai đoán trước ngày kết thúc chiến tranh chỉ có 3 ngày.
Đây là việc tôi đang tìm hiểu thêm về mặt lý thuyết.
Hy vọng với thời gian các bạn sẽ cùng chúng tôi nghiên cứu phát hiện và hoàn chỉnh.
Lưu ý:
Quẻ độn nằm trong phạm trù của quẻ chính. Nhưng nếu là người khác hỏi, hoặc là sự việc khác thì tính chất của quẻ độn vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Quẻ chính chỉ là yếu tố xét để gia giàm.

3 – 2 – 1: Lạc Việt độn toán và khả năng hóa giải sự xấu
Trên thực tế khả năng hoá giải của Lạc Việt độn toán đã đuợc chững nghiệm qua thực tế, chuyện nhỏ hoá giải nhỏ, chuyện lớn hoá giải lớn...nhưng cũng có những chuyện không thể hóa giải ,vì quẻ cho biết không thể hoá giải được.
Ví dụ: Đây là một truờng hợp rất cụ thể độn quẻ cho thấy khả năng hoá giải rất cao ,và tôi cảm ơn hội viên Bluepearl đã đồng ý cho chứng nghiệm công khai
Bluepearl yêu cầu giúp đỡ vì một việc nan giải. Cụ thể là hợp đồng đã ký với khách hàng có nguy cơ bị hủy bỏ do trục trặc về nguồn cung cấp. Hậu quả là sẽ bị khiếu kiện bồi thường rất rắc rối, mặc dù đang rất nỗ lực để cứu vãn hợp đồng này không biết có được không?
Quẻ Sinh - Xích Khẩu
Quẻ này cho thấy rõ: Qua mùa xuân mọi việc sẽ trở nên rắc rối, Xích Khẩu chủ sự tranh chấp, cự cãi. Quẻ Sinh cho thấy sự việc đã manh nha bắt đầu. Nhưng Sinh Mộc vượng vào mùa Xuân nên sự việc chưa xảy ra bây giờ. Bởi vậy khi sự việc tiên đoán xấu và bản chất sự việc cho thấy khả năng xấu xảy ra thì tất yếu chúng ta phải tìm một phương pháp hóa giải. Quẻ Lạc Viêt Độn Toán đồng thời đã chỉ ra một hướng hóa giải.
Phương pháp hóa giải của sự kiện này nằm ngay trong quẻ độn của Sinh Xích Khẩu là Thương Tiểu Cát.Thương Tiểu Cát là thuần Mộc, xét hai quẻ liên tiếp liên quan đến nhau ta thấy ba hành Mộc chống lại một hành Kim là Xích Khẩu – vốn là quẻ mang tính tranh chấp cự cãi, kiện tụng trong trương hợp này ....
Mộc trong trường hợp này sắp thứ tự sẽ thấy :
Sinh = Sự bắt đầu, mới xuất hiên...
Thương= Trạng thái tình cảm buồn,...
Tiểu Cát = Sự vui vẻ, lợi nhỏ, tình cảm...
Kim khắc Mộc là lý của Ngũ hành. Nhưng Mộc quá vượng Kim sẽ không khắc nổi, đó là dụng của Ngũ Hành.
Như tôi đã trình bày: Quẻ Bát Môn là điều kiện môi trường. Quẻ Luc Nhâm là bản chất nội dung của sự việc, sự vật đây là quẻ thuần về tình cảm. Vậy sách lược đối phó là dùng tình cảm để thuyết phục: Quẻ thuộc Mộc (Tiểu Cát) còn có nghĩa là giấy tờ hợp đồng.Như vậy đối sách cụ thể là dùng tình cảm (ăn nhậu, tâm sự, nói khó, kêu gọi sự thông cảm..), để sửa lại hoặc hủy bỏ hợp đồng. Biến hành Kim của Xích Khẩu mang yếu tố kiện cáo, thành sự hủy hợp đồng, dùng tình cảm để xóa đi sự mâu thuẫn. Nếu có người nữ khoảng 30 tuổi hợp tác trong việc này chắc thành công.

Xác nghiệm: Bluepearl đã đi gặp khách hàng để thương thuyết và đã áp dụng kế sách hóa giải theo huớng tình cảm, trình bày hoàn cảnh, năn nỉ ,... cuối cùng đối tác đồng ý sửa hợp đồng. Mong muốn của Bluepearl đổi nhà cung cấp đã thành công hoàn toàn.
Lưu ý:
Không phải quẻ độn nào cũng hóa giải được

Khả năng và giá trị của Lạc Việt độn toán

Lạc Việt Độn Toán là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan cổ Đông phương được phục hồi, xác định trên cơ sở hợp lý lý thuyết nguyên lý tạo ra là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”. Lạc Việt độn toán hoàn toàn ứng dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành với tư cách là một lý thuyết nhất quán và hoàn chỉnh...


I – Vị trí của Lạc Việt độn toán trong văn hóa cổ Đông phương.
Lạc Việt Độn Toán là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan cổ Đông phương được phục hồi, xác định trên cơ sở hợp lý lý thuyết nguyên lý tạo ra là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”. Lạc Việt độn toán hoàn toàn ứng dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành với tư cách là một lý thuyết nhất quán và hoàn chỉnh. Lý thuyết này và Lạc Việt độn toán không hề tồn tại trong cổ thư chữ Hán. Chưa một triều đại nào trong lịch sử văn minh Hoa Hạ coi thuyết Âm Dương Ngũ hành như một học thuyết chính thống trong xã hội. Lạc Việt độn toán cũng chưa bao giờ được ứng dụng trong lịch sử văn hóa cổ Hoa Hạ cho đến ngày nay với phương pháp và nội dung này. Điều này chứng minh rằng Thuyết Âm Dương ngũ hành đã tồn tại trên thực tế trong văn minh cổ nhân loại. Chính thực tế này là cơ sở phục hồi Lạc Việt độn toán.
Bởi vậy, nên tính tích cực của môn này chính là sự chứng tỏ khả năng phát triển của một luận điểm nhân danh khoa học, theo tiêư chí khoa học chứng minh rằng:
Lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm.

1 – Tính khoa học của Lạc Việt độn toán
Tính khoa học này được xác định theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc phương pháp khoa học:
’’Một lý thuyết khoa học được coi là đúng nếu nó giải thích hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri”
Căn cứ theo tiêu chí khoa học trên thì chúng ta thấy rằng:
- Lạc Việt độn toán với tư cách là một phương pháp tiên tri đã dự đoán tất cả những vấn đề liên quan đến nó và chứng tỏ hiệu quả rất cao của phương pháp dự báo.
- Phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành và nguyên lý căn để ’’Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ” được ứng dụng một cách nhất quán và hoàn chỉnh trong phương pháp Lạc Việt độn toán.
- Lạc Việt độn toán hoàn toàn mang tính quy luật và tất yếu là khách quan trong phương pháp.
Cũng như một giả thuyết khoa học hoặc một phương pháp khoa học, Lạc Việt độn toán cũng cần có thời gian để hoàn thiên, nhưng đó là những điều kiện cần bổ sung chứ không phải lý do để phản bác.

2 – Tính ưu việt của phuơng pháp Lạc Việt Độn Toán
Tính ưu việt của phương pháp Lạc Việt Độn Toán chỉ là so sánh với các phương pháp dự báo khác đang lưu truyền trên thực tế hiện nay, chứ không phải so sánh với nhu cầu về hiệu quả dự báo và thực tế thiên nhiên và cuộc sống.

2 – 1
Những ưu điểm của Lạc Việt động toán ở chỗ là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan cổ Đông phương được phục hồi, trên cơ sở đó xác định được nguyên lý tạo ra nó chính là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ” . Bởi vậy, sự tiếp thu Lạc Việt độn toán hoàn toàn phù hợp với tính hệ thống và hợp lý trong tư duy. Do đó, sự tham khảo và nghiên cứu Lạc Việt độn toán sẽ được tiếp thu nhanh chóng so với tất cả các phương pháp dự báo khác. Đây là một trong những ưu điểm nổi trội nhất của Lạc Việt độn toán. Trên thực tế, nhưng người tham khảo, nghiên cứu ứng dụng Lạc Việt độn toán đều tiếp thu một cách nhanh chóng phương pháp ứng dụng với khả năng dự báo xuất sắc.
Ngoài ra Lạc Việt độn toán còn có những khả năng sau đấy:

2 – 2:
Cùng một thời điểm có thể trả lời nhiều câu hỏi một lúc bằng cách lấy quẻ độn liên tiếp nhau. So với phương pháp dự báo khác thường bị hạn chế không thể trả lời nhiều câu hỏi một lúc thì đây là ưu điểm của Lạc Việt độn toán.

2 – 3:
Phối hợp với phương pháp tính giờ để có thể chủ động chọn quẻ̉ tốt, giờ đẹp để tiến hành công việc. Sau khi chọn được một ngày tốt - theo các cách phổ biến - để "Lợi kiến đại nhân" thì ta chọn giờ tốt hợp lý. Thí dụ giờ Hoàng Đạo vào các giờ trong ngày có thể giao tiếp như buổi trưa, buổi chiều...Sau đó dùng quẻ Lạc Việt độn toán để tìm một quẻ tốt trùng khớp với một giờ Hoàng Đạo và giờ Hoàng Đạo lại trùng với một quẻ tốt vào khoảng giờ hợp lý cho công việc cần tiến hành sẽ có khả năng dễ thành công hơn. Có quẻ thật tốt trong ngày nhưng lại rơi vào giờ Dần, Sửu chẳng hạn thì cũng bỏ.
Trong thực tế chọn một giờ cực tốt để có thể thay đổi số phận là rất khó. Ngày giờ tốt thường là chỉ có thể làm giảm nhẹ cái xấu. Đây không phải ưu điểm nổi bật vì Chu Dịch cũng thực hiện được điều này.

2 – 4:
Tính đơn giản của Lạc Việt độn toán khiến người biết toán quẻ có thể có ngay dự báo cần thiết để ứng xử.

2 – 5:
Lưu ý: Một số ưu điểm của Lạc Việt độn toán so với các phương pháp dự báo khác mang tính thời gian. Trong tương lai, khi thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liện hệ của nó với các phương pháp ứng dụng được phục hồi thì sẽ có một số ưu điểm của Lạc Việt độn toán mất tính vượt trội.

3 - Tính hạn chế của Lạc Việt độn toán.
Lạc Việt độn là một phương tiên của con người dùng để dự báo tương lai, nên nó cũng phải có tính hạn chế của nó như tất cả những phương tiện mà con người đã tạo ra. Đây cũng chính là sự hạn chế chung của tất cả các phương pháp ứng dụng của con người nhân danh khoa học. Có thể nói rằng: Tất cả các phương pháp ứng dụng và công cụ dù là vật thể hay phi vật thể do con người tạo ra đều có những giới hạn của nó. Tất cả đều không tuyệt đối vì không nhân danh Thượng Đế.
Không riêng Lạc Việt độn toán mà có thể nói rằng: Tất cả những phương pháp ứng dụng dự báo của nền Lý học Đông phương cổ đều có những hạn chế chính bởi bản chất khoa học của nó - Cho dù người ta giải thích nó như thế nào: ”mê tín dị đoan”, hay sản phẩm của thần thánh....
Tính hạn chế này cũng nằm ngay tại phương pháp của nó, bao gồm:
3 – 1:
Tính quy ước của thời gian và thực tế vận động của vũ trụ.
3 – 2:
Sự khái quát của nội dung quẻ và tính cụ thể của muôn mặt sự việc, sự vật.
3 – 3 :
Tính quy ước của thời gian lên không gian bề mặt địa cầu khiên vị trí người luận đoán dễ sai lệch về phương pháp. Thí dụ như thời gian ở hai cực. Từ đó suy ra: Sự luận đoán tiên tri khó chính xác ở vùng Hàn đới hoặc cận hàn đới gần hai cực Địa cầu.

Tuy nhiên, mặc dù có những hạn chế trên thì phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán và có thể nói rằng: Hầu hết những phương pháp dự báo đều là hệ quả của một học thuyết vũ trụ quan rất cao cấp vượt ra ngoài khả năng nhận thức của tri thức khoa học hiện đại và phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Việc này đã thể hiện qua hiệu quả dự báo trải hàng ngàn năm trong xã hội loài người của các phương pháp dự báo Đông phương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét