Default Inflation - những khái niệm cơ bản
I. Lạm phát là gì:
Lạm phát được định nghĩa như là sự gia tăng kéo dài về mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ, được đo lường bằng tỷ lệ tăng hàng năm.
Có vài biến thể của lạm phát:
* Giảm phát (deflation): mức giá chung thì giảm, ngược với lạm phát.
* Lạm phát phi mã (hyperinflation): lạm phát ở mức độ cao bất thường. Lạm phát vào những năm 1920 ở Đức là điển hình - 2500% trong vòng 1 tháng. Tra cứu thêm ở wikipedia thì mức chấp nhận được để phân lọai vào hyperinflation là ít nhất từ 20-30% một tháng.
* Lạm phát đình đốn (Stagflation): lạm phát đi chung với kinh tế trì trệ và thât nghiệp cao. Xảy ra ở các nước công nghiệp hóa vào những năm 1970, khi kinh tế trì trệ đi cùng lúc với OPEC tăng giá dầu hỏa.
Nguyên nhân của lạm phát: có 2 lý thuyết được chấp nhận rộng rãi:
* Lạm phát do cầu kéo (Demand - Pull Inflation): Cầu tăng nhanh hơn cung, giá sẽ tăng. Thường xảy ra với các nền kinh tế đang phát triển.
* Lạm phát do chi phí đẩy (Cost - Push Inflation): khi chi phí đầu vào tăng, các công ty buộc phải tăng giá bán ra để đảm bảo lợi nhuận biên.
Cái giá của lạm phát: lạm phát tác động đến các đối tượng khác nhau theo những cách khác nhau, và phụ thuộc vào liệu lạm phát có nằm trong tầm dự đóan hay không.
* Người đi vay sẽ hưởng lợi, và người cho vay sẽ chịu lỗ nếu không dự đóan được lạm phát
* Việc không chắc chắn về điều gì sẽ xảy ra trong tương lai do lạm phát sẽ khiến các công ty và người tiêu dùng giảm chi tiêu, sẽ ảnh hưởng đến sản lượng đầu ra của nền kinh tế trong dài hạn.
* Những người có thu nhập cố định - ví dụ như hưởng lương hưu - sẽ giảm sức mua, dẫn đến giảm mức sống. Nhân viên văn phòng hưởng lương cố định, nếu không thương lượng mức tăng lương theo kịp lạm phát, cũng sẽ như vậy.
* Nền kinh tế sẽ phải chịu thêm "Menu cost", tức chi phí để in ấn lại giá mới, bao bì mới, ...
Cuối cùng, lạm phát là dấu hiệu của nền kinh tế đang phát triển.
II. Lạm phát được đo lường như thế nào?
Giá của "Rổ hàng hóa - market basket" bao gồm nhiều hàng hóa đại diện cho nền kinh tế được so sánh qua các kỳ thời gian khác nhau, tạo thành một chỉ số giá cả - là giá của rổ hàng hóa hiện nay so theo tỷ lệ phần trăm với giá cả của cùng rổ hàng hóa vào đầu năm.
Ở Bắc Mỹ, có 2 chỉ số chính để đo lường lạm phát:
* Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index - CPI): đo lường sự thay đổi về giá tiêu dùng và dịch vụ như khí đốt, thực phẩm, áo quần, xe hơi. CPI được đo lường dưới góc nhìn của người mua. Rổ hàng hóa để tính CPI rất đa dạng, lên đến 80,000 mục và được khảo sát hàng tháng.
* Chỉ số giá sản xuất (Producer Price Index - PPI): đo lường sự thay đổi về giá bán của các nhà sản xuất nội địa. PPI được đo lường dưới góc nhìn của người bán.
Về dài hạn, PPI & CPI đưa ra những tỷ lệ lạm phát tương tự nhau, nhưng trong ngắn hạn, PPI thường tăng trước CPI. Thường thì các nhà đầu tư theo dõi CPI hơn là PPI.
III. Lạm phát và lãi suất:
Mỗi khi bạn nghe đến lạm phát được cập nhật trên các bản tin, thường thì lãi suất sẽ được đề cập đến theo cùng hướng.
Ở USA, lãi suất được quyết định bởi Cục Dự Trữ Liên Bang (Federal Reserve). FED thường gặp một năm 8 lần để đặt ra các mục tiêu ngắn hạn cho lãi suất. Trong những cuộc gặp này, CPI & PPI là những nhân tố quan trọng đối với quyết định của FED.
Lãi suất tác động trực tiếp đến thị trường tín dụng (vay) vì lãi suất cao tức chi phí vay nợ sẽ cao hơn. Bằng cách thay đổi lãi suất, FED cố gắng đạt được tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất, giá cả hàng hóa ổn định và mức độ tăng trưởng tốt. Một khi cắt giảm lãi suất, chi tiêu xã hội sẽ gia tăng, sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế.
Ngược với những nhầm hiểu thông thường, tăng trưởng kinh tế quá mức có thể đem đến những bất lợi. Một mặt, nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh có thể sẽ phải chịu lạm phát phi mã, gây nên những vấn đề như đã đề cập ở phần trên. Mặt khác, nền kinh tế không lạm phát có thể đã bị trì trệ. Một nền kinh tế tăng trưởng ở mức độ phù hợp đi theo nó là lạm phát vừa phải sẽ là hợp lý nhất. Và đây là nhiệm vụ của FED. Việc siết chặc - tăng lãi suất - nhằm ngăn chặn lạm phát trong tương lai, và ngược lại giảm lãi suất nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế.
Nên nhớ rằng mặc dù lạm phát là một yếu tố chính, nó không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến quyết định của FED. Ví dụ, FED có thể sẽ giảm lãi suất khi khủng hoảng tài chính nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường tài chính USA.
IV. Lạm phát và đầu tư:
Tác động của lạm phát vào danh mục đầu tư phụ thuộc vào loại chứng khoán đang nắm giữ. Nếu chỉ đầu tư vào stocks thì không cần lo lắng nhiều vì trong dài hạn, doanh thu và lợi nhuận của công ty thường theo tăng cùng nhịp với lạm phát. Tuy nhiên, gặp lạm phát đình đốn (stagflation) thì phải xem lại, vì nền kinh tế suy yếu cộng với lạm phát thì rất xấu cho stocks.
Vấn đề chính của stock & lạm phát là lợi nhuận của công ty có khuynh hướng được thổi phồng. Khi lạm phát cao, công ty có vẻ như đang tăng trưởng tốt, trong khi thực sự lạm phát là nguyên nhân chính. Khi phân tích các báo cáo tài chính, cần phải nhớ rằng lạm phát có thể tác động xấu đến thu nhập phụ thuộc vào cách công ty sử dụng để định giá hàng tồn kho (inventory). tức là quan tâm đến khả năng tái sản xuất ra sản phẩm khi xảy ra siêu lạm phát hơn là số dư bằng tiền trên báo cáo.
Cần phân biệt giữa lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) và lãi suất thực (real interest rate). Lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ tăng của đồng tiền, còn lãi suất thực là sự gia tăng của sức mua. Real interest rate = Nominal interest rate - inflation.
Trái phiếu trượt theo lạm phát (Inflation-indexed Bonds): có những loại chứng khoán có thể mang cho nhà đầu tư lợi nhuận mà không bị lạm phát ăn hết. Treasury Inflation Protected Securities - TIPS - là một dạng đặc biệt của trái phiếu kho bạc, với vốn và lãi được buộc chặc vào CPI, sẽ gia tăng để đền bù cho lạm phát nếu xảy ra. Bù lại, tất nhiên là mức lãi sẽ rất thấp.
Nguồn : Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét