Bức tranh kinh tế thế giới năm 2011 có nhiều điểm sáng hơn tối. Sự hồi phục vững của kinh tế Mỹ và tăng trưởng ổn định của kinh tế Châu Á (ngoài Nhật) là hai đầu tầu kéo kinh tế thế giới khỏi ảnh hưởng tiêu cực bởi suy giảm của Nhật và của Châu Âu trong năm 2011. Một chu kỳ tăng trưởng kinh tế đủ dài có thể bắt đầu và kéo dài hơn 3 năm. Tuy nhiên rủi ro vẫn luôn hiển hiện.
Có thể được coi là nền kinh tế nhỏ và mở với kinh tế thế giới, Việt Nam sẽ thoát ra sau ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu và có thể chậm hơn các nước khác từ 1 tới 2 năm trước khi có sự ổn định vĩ mô và tăng trưởng vững. Giả sử rằng, các chính sách ổn định tiền tệ và vĩ mô có kết quả (và hầu như chắc chắn là như vậy nếu Việt Nam chấp nhận một giai đoạn khó khăn để khôi phục lại niềm tin của thị trường) thì Việt Nam có thể có được một quãng đường tăng trưởng ổn định từ năm 2012.
TTCK nửa đầu năm 2011 sẽ gặp khó khăn do các chính sách bình ổn vĩ mô. Tuy nhiên kinh tế thế giới sáng sủa hơn mang lại niềm tin cho thị trường khi Việt Nam bắt đầu hòa nhịp cùng sự phục hồi của nền kinh tế thế giới vào năm 2012.
..................................................................................................................................................
1. KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2011
1.1. Một số rủi ro tiềm ẩn
Kinh tế Việt Nam trong năm 2011 và giai đoạn sau đó có bốn rủi ro chính như sau:
Thứ nhất, giá dầu ở mức cao và có xu hướng tăng lên. Mọi chuyện rất rõ ràng vì giá dầu có tác động lớn tới sự ổn định mức giá của Việt Nam. Nếu như cuộc khủng hoảng tại Châu Phi không được giải quyết nhanh chóng thì giá dầu sẽ tiếp tục ở mức cao như hiện nay. Lịch sử cho thấy giá dầu sau khủng hoảng thường tăng lên đều theo thời gian: tăng đều từ năm 2001 tới 2008 và giảm trong giai đoạn khủng hoảng tài chính và sau khi kinh tế Mỹ và một số nước có dấu hiệu phục hồi rõ nét sau khủng hoảng cộng với nội chiến Châu Phi, giá dầu tiếp tục tăng trở lại
Thứ hai, lạm phát tăng cao tại nhiều quốc gia do chính sách nới lỏng định lượng tạo lợi thế cho xuất khẩu và cân đối lại cấu trúc cầu hàng quốc tế. Việc này dẫn tới những xung đột về chính sách tiền tệ giữa các quốc gia và kết quả cuối cùng là giá cả các hàng hóa nói chung có xu hướng tăng lên, kéo theo nhập khẩu lạm phát vào Việt Nam do chi phí nguyên liệu nhập khẩu tăng.
Thứ ba, khủng hoảng nợ công tại Châu Âu chưa kết thúc và thâm hụt ngân sách lớn tại nhiều quốc gia có thể làm giảm dư địa cho thực thi chính sách tài khóa và làm chậm lại quá trình phục hồi, đẩy áp lực về lãi suất tăng trong trung hạn. Những yếu tố này có thể giảm cầu nhập khẩu hàng Việt Nam. Mặc dù vậy, rủi ro này cần thời gian đủ dài kiểm chứng và rất ít khả năng sẽ xảy ra trong năm 2011, mặc dù các rủi ro trung và dài hạn là khá rõ ràng[1].
Thứ tư, khủng hoảng thiên tai tại Nhật có thể ảnh hưởng đến một số ngành công nghiệp công nghệ cao và nguyên liệu sản xuất hàng công nghệ trên thế giới, đẩy giá hàng hóa công nghệ tăng và giảm tăng trưởng ở một số ngành, làm ảnh hưởng tới tăng trưởng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Vốn tài trợ của Nhật cho Việt Nam cũng có thể bị thu hẹp do Nhật phải dành vốn để khôi phục kinh tế nội địa.
1.2. Một số nhận định chung: ánh sáng cuối đường hầm
Bên cạnh những rủi ro tiềm ẩn ở trên cần theo dõi thêm, kinh tế thế giới hiện tại đã ổn định hơn so với giai đoạn 2008-2010 và có thể đang ở vùng đáy. Với một số nước, có thể nói đã bắt đầu phục hồi rõ ràng (chẳng hạn, Châu Đại dương bao gồm Úc và New Zealand, Châu Mỹ, Nga, Châu Á ngoài Nhật)[2]. Tuy nhiên sự phục hồi là không đồng đều và : nước nào/khu vực nào rơi vào khủng hoảng trước sẽ phục hồi trước. Dưới đây là nhận định về một số quốc gia có ảnh hưởng nhiều nhất tới Việt Nam, bao gồm: Mỹ, EU, Nhật, và Trung Quốc.
1.2.1. Mỹ
Những dữ liệu mới nhất cho thấy sự phục hồi kinh tế của Mỹ là khá chắc chắn và phụ thuộc vào tiêu dùng/sản xuất nội địa hơn là các đầu vào nhập khẩu. Tỷ lệ thất nghiệp giảm (hiện còn 9%), dự trữ hàng hóa tăng (thể hiện trong cấu phần đầu tư của GDP) và lạm phát vẫn ở mức thấp (<2%) và trong tầm kiểm soát. Chỉ số niềm tin tăng và chỉ số “lo ngại – fear” giảm[3].
Tuy nhiên, sự hồi phục của Mỹ vẫn phải đối mặt với những rủi ro nhất định: Khủng hoảng nợ Châu Âu sẽ không được giải quyết triệt để và lan sang các nước lớn hơn; Khủng hoảng thiên tại tại Nhật lan rộng; và Nợ công của Mỹ ngày càng tăng lên kéo theo sự quan ngại về áp lực lãi suất trung hạn.
Dựa trên đánh giá của các chuyên gia kinh tế với dữ liệu về lạm phát và việc làm, những động thái của Fed trong các phát biểu gần đây có thể thấy: Fed vẫn sẽ duy trì lãi suất thấp (cho dù có thể tăng nhẹ trong thời gian tới so với mức thấp kỷ lục hiện tại). Và nếu lạm phát vẫn ổn định, Fed sẽ duy trì mức lãi suất hiện tại để đảm bảo rằng tăng trưởng hồi phục vững chắc trong năm 2012. Một số mô hình dự báo cho rằng, lãi suất Fed funds chỉ có thể tăng đáng kể vào năm 2013 do sức cầu lúc đó mới làm gia tăng quan ngại về lạm phát và phù hợp với chu kỳ chính trị của Mỹ.
1.2.2. Châu Âu
Hiện tại kinh tế khu vực đồng tiền chung Châu Âu được dự đoán đi ngang trong năm 2011 và chưa có dấu hiệu cho thấy có sự phục hồi chắc chắn. Vì có sự tập trung vào chính sách tiền tệ (qua ECB) kiềm chế lạm phát và chính sách tài chính phụ thuộc vào từng quốc gia (có tuân thủ một số quy định tỷ lệ thâm hụt ngân sách - thường bị các nước vi phạm) đã không có được sự phối hợp tốt giữa chính sách tiền tệ và tài chính. Vì vậy, rủi ro lạm phát ở Châu Âu được cho là rủi ro ở mức độ lớn hơn so với Mỹ khi ECB có thể đẩy lãi suất lên cao mà không có sự đảm bảo cân bằng chính sách tài chính giữa các nước trong khu vực dùng đồng tiền chung Châu Âu.
1.2.3. Nhật
Nhật đang hứng chịu những tác động nặng nề từ thiên tai. Bản thân nước Nhật trước khi hứng chịu thiên tại cũng đã rơi vào vòng luẩn quẩn của tăng trưởng, nghĩa là sức tăng trưởng của Nhật phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, trong khi đó các nước nhập khẩu hàng hóa của Nhật đang cố gắng cân bằng cấu trúc cung-cầu nội địa để giảm nhập khẩu hàng hóa trong thời gian gần đây. Hai nhân tố này dẫn tới việc kinh tế Nhật khó đảm bảo mức tăng trưởng tốt trong năm 2011. Rất khó để đoán định những tác động hậu thiên tai và rủi ro hạt nhân của Nhật lên nền kinh tế Nhật tại thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, việc khắc phục hậu thiên tai sẽ có thể làm gia tăng hàng nhập khẩu từ các thị trường quen thuộc như Việt Nam.
1.2.4. Trung Quốc
Nạn lạm phát và tăng trưởng quá nóng của Trung Quốc đã buộc Ngân hàng trung ương Trung Quốc phải tăng lãi suất cơ bản. Tương tự với trường hợp của Singapore và của Úc, khi mà tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính qua đi, sức tăng trưởng được đảm bảo và sức cầu cá nhân đẩy lạm phát tăng cao, việc kiềm chế lạm phát được ưu tiên hàng đầu. Có thể Trung Quốc đang đối mặt với một số rủi ro như phân tích của giới chuyên môn: bong bóng bất động sản, nợ khó đòi của hệ thống ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn, sức ép về nguyên vật liệu thô phục vụ tăng trưởng không được đáp ứng đầy đủ, lương công nhân có xu hướng tăng lên. Mặc dù Trung Quốc có được sự tin tưởng ổn định tăng trưởng trong năm 2011 do thể chế kinh tế đặc thù, chúng ta cũng nên để ý một số rủi ro với Trung Quốc có thể phát sinh bất cứ lúc nào.
2. XU HƯỚNG KINH TẾ THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2012 - 2016
Thật khó đoán định kinh tế thế giới sẽ đi đến đâu trong một thời kỳ dài do hiện tại có nhiều yếu tố có thể gây bất ổn tới kinh tế thế giới. Theo tính chu kỳ kinh tế xét và chu kỳ chính trị, thông thường kinh tế thế giới sẽ có khoảng từ 5 tới 7 năm để lại có những bất ổn lớn xảy ra[4]. Như vậy, kinh tế thế giới có thể sẽ tăng trưởng ổn định trong giai đoạn 2012-2016 sau khi các nền kinh tế thế giới tìm được điểm cân bằng giao thoa với nhau và cùng thoát ra khủng hoảng.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nên cân nhắc ba rủi ro chính có thể xảy ra trong trung hạn. Thứ nhất, rủi ro về thâm hụt chi tiêu quá lớn của chính phủ tại hầu hết các nền kinh tế, đặc biệt là Châu Âu, Mỹ, và Nhật. Điều này có thể gây áp lực làm gia tăng lãi suất thị trường (huy động bằng trái phiếu để trả nợ) và hạn chế mức độ ảnh hướng trong chi tiêu của Chính Phủ trong việc thực thi chính sách tài khóa trung hạn.
Thứ hai, kinh tế Trung Quốc có thể có những thay đổi mạnh mẽ và có thể phát sinh các rủi ro trong nội tại nền kinh tế Trung Quốc do bong bóng tài sản có thể sẽ bộc lộ và vỡ, gây tác động tiêu cực tới các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào trên thế giới và đồng thời tác động xấu tới chuỗi cung cấp các hàng hóa ở phân khúc có chất lượng thấp và trung bình.
Thứ ba, các vấn đề về giá dầu do bất ổn định chính trị tại Trung Đông có thể sẽ đẩy cao chi phí sản xuất tại các nước nhập khẩu dầu và ảnh hưởng tới sụt giảm cung hàng hóa toàn cầu. Mặc dù vậy, rủi ro này có vẻ không thực sự hiển hiện nếu không có sự đột biến về giá dầu (tức là, giá dầu tăng chỉ phản ánh sức tăng của lạm phát trung bình trên thế giới).
3. ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆT NAM
3.1. Xuất nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phụ thuộc vào cả xuất khẩu và nhập khẩu. Tuy nhiên việc hoạt động XNK có tác động cụ thể ra sao tới tăng trưởng kinh tế vẫn chưa có câu trả lời cụ thể do nhập siêu có thể gia tăng (hiệu ứng trực tiếp giảm tăng trưởng) nhưng lợi ích sản xuất trung dài hạn có thể là lớn (hiệu ứng vòng hai đảm bảo tăng trưởng trung hạn). Xét theo nhiều yếu tố, có vẻ hiệu ứng vòng 2 lớn hơn hiệu ứng vòng 1: lợi ích từ nhập khẩu thiết bị máy móc phục vụ mở rộng sản xuất trong trung hạn bù đắp cho các thâm hụt từ nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào và hàng hóa tiêu dùng hiện tại.
Việt Nam sau khi bị tác động khủng hoảng thông thường có thể mất từ 1 tới 2 năm để có lại sức tăng trưởng ổn định bên cạnh các chỉ tiêu vĩ mô khác được đảm bảo[5]. Mặc dù các nền kinh tế thế giới vẫn có sự bảo hộ hàng hóa trong nước nhất định để cân bằng lại cấu trúc cầu hàng hóa của thế giới, kinh tế thế giới hồi phục và nhu cầu hàng hóa sau thiên tai của Nhật có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Vì vậy, nếu Việt Nam có sự ổn định vĩ mô ngay trong năm 2011, hoạt động XNK của Việt Nam có thể sẽ nhộn nhịp trong năm 2011 và trong trung hạn do kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng vững và mở rộng giai đoạn này.
3.2. Lạm phát
Có hai yếu tố trên thế giới tác động đến lạm phát tại Việt Nam. Thứ nhất là giá cả hàng hóa quốc tế gia tăng, bao gồm giá cả nguyên vật liệu và xăng dầu, sẽ gây tác động dương tới lạm phát ở Việt Nam và có thể có những tác động không mong muốn lên toàn bộ nền kinh tế. Như đã nói ở trên, giá dầu luôn có xu hướng gia tăng và không loại trừ khả năng sẽ ở mức cao trong trung hạn và nới lỏng tiền tệ thế giới đang đẩy giá nguyên vật liệu nhập khẩu vào Việt Nam tăng. Hai yếu tố này gây “nhập khẩu” lạm phát vào Việt Nam.
Thứ hai, lạm phát xuất phát từ mất giá của VND thông qua hiệu ứng giá hàng nhập khẩu tăng do tỷ giá tăng (Pass-though Real Exchange Rate Effect). Trên thực tế trong một thời gian dài, lạm phát cao cộng với thâm hụt cán cân thương mại chủ yếu bằng đồng USD là nguyên nhân chính dẫn tới việc đồng VND mất giá so với VND. Trong trung hạn, với việc lạm phát dự kiến năm 2011 khó có thể thấp hơn 10% trong khi nhiều khả năng nhập siêu tiếp tục xảy ra năm 2011. Tác động của tỷ giá lên lạm phát là khá hiện hữu.
Tuy nhiên, nếu lạm phát thế giới được kiểm soát tốt và nội chiến Châu Phi được giải quyết sớm, “nhập khẩu” lạm phát chỉ phản ánh mức lạm phát tương đối của thế giới so với Việt Nam. Và nếu như niềm tin của thị trường được khôi phục thông qua các chính sách vĩ mô của Chính phủ Việt Nam trong thời gian gần đây, đặc biệt là chính sách tỷ giá và kiềm chế lạm phát. Với hai điều kiện như vậy xảy ra, nhập khẩu lạm phát không phải là một yếu tố đáng lo ngại.
3.3. Dự trữ ngoại hối
Dự trữ ngoại hối là một vấn đề khó khăn và có tính đặc thù riêng đối với nền kinh tế Việt Nam. Có ba điểm chính chúng ta cần lưu ý. Thứ nhất, vàng ở Việt Nam có vai trò như tiền tệ trong lưu thông nhưng trên thực tế là một cấu phần của dự trữ ngoại hối và có khối lượng lớn. Xét trong bối cảnh giá vàng có thể ở mức cao trong thời gian tới, việc quản lý thị trường vàng tốt bên cạnh việc đảm bảo các nhu cầu chính đáng của người dân sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối bằng vàng quy ngoại tệ.
Thứ hai, ảnh hưởng của nguồn vốn FDI, vốn gián tiếp vào Việt Nam cũng như giải ngân nguồn vốn ODA phụ thuộc vào tình hình kinh tế thế giới. Do Việt Nam đi sau trong giai đoạn đầu phục hồi kinh tế thế giới nên những nguồn vốn này sẽ chảy vào Việt Nam trong trung hạn hơn là thời điểm hiện tại. Tức là, nguồn vốn gián tiếp sẽ hạn chế trong năm 2011 và sẽ tăng dần trong năm 2012 và trong trung hạn. Bên cạnh đó, trong trung hạn nguồn vốn ODA có thể vẫn giữ được cam kết mặc dù ODA của Nhật có thể chững lại trong thời gian tới. Những nhân tố trên cho thấy trong trung hạn, khó có một kết luận về xu hướng tăng/giảm của vốn ODA, nhưng sẽ có sự gia tăng nguồn vốn FDI và FII.
Thứ ba, kiều hối cũng là một kênh quan trọng cho dự trữ ngoại hối. Kinh tế thế giới tăng trưởng tốt sẽ kéo theo kiều hối (từ Việt kiều và xuất khẩu lao động) tăng lên. Trên thực tế, các khoản tiền gửi này là lớn góp phần tăng dự trữ ngoại hối nhưng với điều kiện quản lý ngoại tệ và tỷ giá của Việt Nam phải đảm bảo rằng khoản tiền này thuộc về dự trữ ngoại hối hơn là sở hữu của cá nhân và nằm ngoài hệ thông ngân hàng.
Giá dầu thô 2001-2011
[1] Gần đây, các tổ chức xếp hạng quốc tế đã hạ bậc nợ dài hạn của Bồ Đào Nha hai bậc xuống mức A3. Tuy nhiên, có thể thấy Châu Âu đã chủ động đi trước thành lập các quỹ hỗ trợ khủng hoảng nợ công tại các quốc gia EU. Tất nhiên, khủng hoảng nợ công có tính chất kéo dài và thường tái lập lại chính các quốc gia vấp phải.
[2] Các đánh giá, nghiên cứu của một số thể chế tài chính lớn, các nước này chính thức vượt qua giai đoạn tiền phục hồi và hiện bước vào giai đoạn tăng trưởng ổn định, mở rộng sản xuất.
[3] Xem thêm các báo cáo đánh giá chung của NBER (National Bureau of Economic Research)
[4] Chẳng hạn năm 1997-1998 có khủng hoảng tài chính Châu Á; Năm 2001-2002 có khủng hoảng nhỏ tại Mỹ và Châu Mỹ La-tin; Năm 2007-2008 có khủng hoảng tài chính toàn cầu vay dưới chuẩn của Mỹ và một số nước.
[5] Chẳng hạn, phải tới năm 1999-2000, Việt Nam mới thoát hẳn khỏi sự tác động tài chính Châu Á. Tương tự như vậy, nếu Mỹ và một số nước thoát ra khỏi khủng hoảng vào nửa cuối năm 2009, thì Việt Nam sẽ có thể có thể thoát ra khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng nửa cuối năm 2011. Trên thực tế, hoạt động XNK của Việt Nam đã phục hồi tốt từ năm 2010.
Tác giả: Tống Minh Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét